Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần
2
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Tập 03
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Kinh Giải, hàng thứ hai từ
dưới đếm lên.
Chúng ta từ
“nhi kỳ trung chi Vô
Lượng Thọ Kinh giả, năi Tịnh Độ quần
kinh chi thủ yếu, Tịnh Tông đại
đức thường xưng vi Tịnh Độ
đệ nhất kinh giả dă” (nhưng trong ấy,
kinh Vô Lượng Thọ chính là kinh đứng đầu,
chủ yếu trong các kinh Tịnh Độ; các bậc
đại đức trong Tịnh Tông thường gọi
kinh này là kinh Tịnh Độ bậc nhất). Trong phần
trước, tôi đă nói với quư vị, câu này là do lăo
cư sĩ từ bi vô tận, trí huệ chân thật, vừa
mở đầu, trong đoạn ngắn thứ nhất
này, đă giới thiệu bộ kinh điển hy hữu
này với chúng ta. Trong đời này, chúng ta may mắn có thể
nghe, có thể đọc, có thể y giáo phụng hành, chúng
ta có thể nói giống như ông Bành Tế Thanh: “Một ngày hiếm có khó gặp từ
vô lượng kiếp đến nay”, ông ta nói nguyên
văn như thế. Một ngày như vậy quá khó có! Nói “một ngày” th́ chúng ta phải
nắm chắc ngày ấy, ngày ấy không chỉ là vĩnh
viễn thoát ly luân hồi lục đạo, mà thưa cùng
quư vị, c̣n là vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới.
Thoát ly lục đạo luân hồi, nhưng chưa thoát ly
mười pháp giới, do thoát ly mười pháp giới khá
khó khăn. Sau khi có được pháp môn này, sẽ thoát ly mười
pháp giới. Ở đây nói là “Tịnh
Độ quần kinh chi thủ yếu” (đứng
đầu, trọng yếu nhất trong các kinh Tịnh
Độ); theo tôi thấy, không chỉ là Tịnh Độ,
mà c̣n là đứng đầu, trọng yếu nhất
trong các kinh thuộc Đại Tạng Kinh! Quư vị đều
biết: Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh là kinh đứng
đầu, trọng yếu nhất của Bát Nhă bộ[1], chẳng dài, hai trăm sáu mươi chữ.
Đức Phật nói kinh Đại Bát Nhă suốt hai
mươi hai năm, hai mươi hai năm giảng những
ǵ? Tâm Kinh triển khai thành bộ Đại Bát Nhă sáu
trăm quyển, quy nạp lại, bèn thành hai trăm sáu
mươi chữ này, bất tăng, bất giảm; nhưng
Tịnh Độ Tông cũng có tâm kinh, tâm kinh là ǵ vậy?
Kinh cuối cùng trong Tịnh Độ Ngũ Kinh là do Ấn
Quang đại sư đề xuất, ghép vào sau Tịnh
Độ Tứ Kinh, trở thành Tịnh Độ Ngũ Kinh.
Tôi thấy cử chỉ này, kinh ngạc khôn cùng, thật sự
rất tuyệt, đấy chính là Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông Chương trong kinh Lăng
Nghiêm. Kinh văn của chương này là bao nhiêu? C̣n ít
hơn Bát Nhă Tâm Kinh, hai trăm bốn mươi bốn chữ.
Bát Nhă Tâm Kinh có hai trăm sáu mươi chữ; chương
này có hai trăm bốn mươi bốn chữ, là Tâm Kinh
của Tịnh Tông. Tịnh Tông là phần quan trọng hàng
đầu trong giáo pháp của cả Đại Tạng
Kinh. Nói cách khác, Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương
có thể nhiếp trọn vẹn hết thảy kinh giáo và
vô lượng pháp môn do thập phương tam thế hết
thảy Như Lai đă nói, thật đấy, chẳng giả
đâu! Viên Thông Chương dạy chúng ta: “Bất giả phương tiện tự đắc
tâm khai” (chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự
khai ngộ), “đô nhiếp lục
căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối) bèn thành công, bèn
viên măn. Đây là chỗ chẳng thể nghĩ bàn trong Phật
pháp, trong một đời này chúng ta được gặp
gỡ, may mắn khôn sánh, phải giữ chắc. Nếu
chẳng giữ lấy, đáng tiếc quá! Quư vị luân hồi
trong lục đạo, ngày nào mới có thể gặp
được những thứ này?
Chúng ta lại
đọc tiếp, “chí ư Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác
Kinh giả, năi tiên sư Hạ Liên Cư lăo cư
sĩ, hội tập Vô Lượng Thọ Kinh, Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống, ngũ chủng nguyên dịch,
quảng hiệt tinh yếu, viên nhiếp chúng diệu,
hội thành kim kinh, hiện thôi vi Vô Lượng Thọ
Kinh chi thiện bổn giả dă” (C̣n như Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh là do tiên
sư là lăo cư sĩ Liên Cư, hội tập năm bản
dịch kinh Vô Lượng Thọ trong các đời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống, chọn rộng răi những
chỗ tinh yếu, thâu tóm trọn vẹn các chỗ hay, hội
tập thành bản kinh này, nay được tôn là bản
hoàn thiện nhất của kinh Vô Lượng Thọ). Chuyện
này không dễ dàng! Thầy của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ là cụ Hạ Liên Cư, cụ Hoàng sanh trưởng
trong một gia đ́nh tin Phật pháp, cậu của cụ
Hoàng là cư sĩ Mai Quang Hy. Trong thuở ấy, Phật
môn có câu “Nam Mai, Bắc Hạ”,
[nghĩa là] trong giới tại gia học Phật, ở phía
Nam, người bậc nhất là cụ Mai Quang Hy; ở
phương Bắc, người bậc nhất là cụ Hạ
Liên Cư. Câu “Nam Mai, Bắc Hạ”
chỉ hai vị đại đức này. Hai người
họ là đồng sự bao nhiêu năm, là đồng
tham đạo hữu, quan hệ vô cùng thân thiết. Hoàng Niệm
Tổ là cháu được gởi sang bên cụ Hạ, theo
cụ Hạ học Phật. Theo học hơn hai
mươi năm, trở thành truyền nhân, là đệ tử
truyền pháp của cụ Hạ, trong Phật môn chúng ta gọi
là “pháp tử”. Bộ kinh này
do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập dựa trên
năm bản dịch gốc trong các đời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống được bảo tồn
trong Đại Tạng Kinh. Nói về triều đại, Ngụy
là nhà Tào Ngụy[2] thuộc thời đại
Tam Quốc, triều Ngô cũng thuộc thời Tam Quốc.
Ngụy và Ngô đều thuộc thời đại Tam Quốc,
cùng với [các bản dịch thời] Đường và Tống,
tổng cộng là năm bản dịch gốc. Sự
phiên dịch này sẽ được nói trong phần sau. Với
kỹ thuật ấn loát phát triển hiện tại, t́m năm
bản dịch gốc chẳng khó khăn ǵ!
Đừng nói chi thời
cổ, ngay trong lúc tôi học Phật, tức sáu mươi
năm trước. Vào sáu mươi năm trước đây,
ấn loát vẫn dùng chữ đúc bằng kim loại
để sắp chữ, kể như đă tiến bộ
lắm rồi, nhưng vẫn chẳng sánh bằng lối
in bằng cách chụp ấn bản như hiện thời,
hết sức thuận tiện! Thuở ấy, thư tịch
cũng chẳng dễ ǵ t́m được, rất khó t́m
năm bản dịch này. Bản thường thấy nhất
là bản dịch đời Ngô, tức bản của ngài Khang
Tăng Khải[3];
kinh Vô Lượng Thọ chỉ có bản này lưu thông bên
ngoài nên [hành nhân Tịnh Độ] có thể đọc
được, bốn bản kia rất ít lưu truyền.
Chúng ta rất khó đọc được cả năm bản
dịch gốc, trừ phi t́m trong Đại Tạng Kinh,
chứ không có bản lưu thông riêng! Theo cổ đại
đức, năm bản dịch có nội dung sai khác rất
lớn, có những điều được bản dịch
này nói tới, bản dịch kia chẳng có. Do vậy, cổ
đại đức đă căn cứ trên chân tướng
sự thật này để phán đoán: Đúng là trong thuở
ấy, đức Thế Tôn đă nhiều lần tuyên giảng
kinh Vô Lượng Thọ, nên mới có t́nh h́nh này. Nếu chỉ
tuyên đọc một lần, người phiên dịch dẫu
nhiều, nói chung, [nội dung các bản dịch] sẽ là
đại đồng tiểu dị, chẳng sai biệt
rất lớn. Cách suy đoán này rất hợp với lư luận,
chúng ta thừa nhận cách suy đoán ấy chính xác. Nhiều
lần tuyên giảng, tỏ rơ pháp môn này trọng yếu. Thật
đấy! Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt
Pháp, hết thảy chúng sanh có thể đắc độ
trong một đời, có thể nói là [chỉ có] pháp môn này.
Chúng ta có thể nói: Về sau, cụ Hoàng Niệm Tổ niệm
Phật văng sanh. Lúc cụ bệnh nặng, đă cậy bạn
bè bảo cho tôi biết: Mỗi ngày cụ niệm Phật
mười bốn vạn tiếng, niệm Phật viên tịch.
Cụ là Kim Cang Thượng Sư bên Mật Tông, nhưng
chẳng tu Mật pháp, mà niệm Phật qua đời. Lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư cũng là Hiển Mật viên
dung, cuối cùng văng sanh cũng là niệm Phật qua đời.
Những vị này đều là biểu diễn cho chúng ta
xem.
Hai câu kế
đó gồm tám chữ nhằm giới thiệu đơn
giản ưu điểm của bản hội tập này.
“Quảng hiệt tinh yếu” nghĩa
là toàn bộ những tinh hoa và phần khai thị quan trọng
nhất trong năm bản dịch gốc đều thuộc
trong bản hội tập này. Do vậy, chúng ta có thể
nói: Bản hội tập này là bản tổng hợp hoàn
chỉnh của năm bản dịch gốc, cụ Hạ
đă thực hiện công tác này. “Viên
nhiếp chúng diệu”, “viên”
(圓) là viên măn, Lư, Sự tinh diệu nhất
trong năm bản dịch gốc đều được
gom vào bộ kinh này. “Hiện thôi vi Vô Lượng Thọ kinh chi thiện
bổn giả dă” (được đề cao là bản
kinh Vô Lượng Thọ hoàn thiện nhất), ai đề
cao? Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư rất khiêm hư, đương
nhiên cụ sẽ ngượng ngùng, chẳng tự nói. Quả
thật là so với ba bản hội tập trong quá khứ,
cả ba bản hội tập ấy đều có tỳ vết,
c̣n bản này chẳng t́m được một khuyết
điểm nào, khó có lắm! Người đề cao
đầu tiên là lăo pháp sư Huệ Minh, tức vị thầy
quy y của cụ Hạ Liên Cư. Đây là một vị xuất
gia, là một vị lăo pháp sư thông Tông lẫn thông Giáo, Hiển
Mật viên dung. Trong giới cư sĩ, người đầu
tiên đề cao là đại sĩ Mai Quang Hy. Bản này
truyền sang Đài Loan, cũng do một lăo cư sĩ từ
Sơn Đông mang sang Đài Loan. Phía trước bản này
có một bài tựa rất dài; chư vị thấy trong bản
in hiện thời, bài ấy được in kèm vào phía sau
kinh. Thầy Lư thấy đây là lời tựa do thầy của
ḿnh viết để giới thiệu, bèn hoan hỷ khôn
sánh! Khi đó, thầy Lư mới ngoài sáu mươi, đại
khái khoảng sáu mươi lăm tuổi, thấy bản
này, bèn giảng tại Đài Trung một lần. Bản
này vừa mới được hội tập xong,
được lưu thông với số ấn bản không
nhiều lắm, đại khái chỉ in ba ngàn bản, số
lượng không nhiều! Sau khi bản này ra đời, đương
nhiên chưa có ai viết chú giải. Về sau này, chỉ
nghe nói có pháp sư Từ Châu là một vị trưởng
lăo bên Luật Tông, Sư là một vị đại đức
trong Phật môn vào đầu thời Dân Quốc, giảng
bản này một lần tại Sơn Đông, lại c̣n
viết khoa phán. Hoàng lăo cư sĩ đă photocopy bản khoa
phán này tặng cho tôi một quyển; tôi dựa theo bản
khoa phán của Ngài, viết một bản khoa phán tỉ mỉ
hơn, tôi có bản khoa hội này. Bản này được
nhiều người tôn sùng như thế. Thầy Lư giảng
bộ kinh này, tự viết lời mi chú; đọc lời
mi chú của thầy, tôi có thể hiểu [nội dung của
kinh]. Cụ phân chia [kinh văn thành] từng đoạn, nêu
đại ư mỗi đoạn, đó chính là “khoa đề”
(tựa đề của từng khoa) nhằm nêu rơ nội
dung. V́ thế, lần đầu tôi giảng bộ kinh này
tại Mỹ, đă dựa theo lời mi chú của thầy.
H́nh như đă giảng chừng hai ba lần rồi mới
gặp lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ tặng
tôi bản chú giải này. Trong phần trước, tôi
đă thưa cùng quư vị, cụ tặng tôi bản in bằng
ronéo, in trên giấy thường, chữ in trong ấy lờ
mờ, bản in như vậy đó. Khi ấy, cụ Hoàng
trở về Bắc Kinh, tôi bèn cậy người thỉnh
giáo lăo nhân gia xem cụ có giữ bản quyền hay không. Nếu
cụ giữ bản quyền, chúng tôi rất tôn trọng cụ.
Nếu không giữ bản quyền, tôi chuẩn bị in
thành sách, chính thức lưu thông tại Đài Loan. Cụ
phúc đáp: “Không giữ bản quyền”, lại muốn
tôi viết lời tựa, muốn tôi ghi tựa đề
cho tác phẩm này[4]. V́ thế, chúng tôi in lần đầu một
vạn bộ tại Đài Loan, bản này bèn được
lưu thông tại hải ngoại.
Tịnh
Tông Học Hội do cụ Hạ đề xướng. Phật
pháp muốn hoằng dương trong xă hội hiện đại,
cần phải có chánh danh (danh xưng chính đáng) như
câu nói: “Danh bất chánh, tắc
ngôn bất thuận” (Danh chẳng chính đáng, chẳng
thể nói lọt tai). Trong quá khứ, vào thời cổ, đạo
tràng nhà Phật đều gọi là “tự viện, am, đường”, dùng danh
xưng này; người hiện thời thấy danh xưng
ấy bèn ngỡ là tôn giáo, cho là mê tín. Do vậy, cụ Hạ
đề ra “chánh danh”, “danh bất chánh, tắc ngôn bất
thuận” rất có lư; tôi nghe xong, hoan hỷ, hết sức
tán thành. Cụ nói: Đạo tràng là nơi đại chúng cùng
nhau tu hành, hăy nên gọi là Học Hội. Tịnh Độ
Tông th́ Tịnh Tông Học Hội, Hoa Nghiêm Tông th́ gọi là Hoa
Nghiêm Học Hội, [tông Thiên Thai dùng danh xưng] Thiên Thai Học
Hội, dùng chữ Học Hội. Cơ cấu giáo học
dùng chữ Học Viện, tuyệt lắm! Người ta
vừa nh́n, liền biết đây là cơ cấu giáo dục,
chẳng đến nỗi dính dáng mê tín, đề nghị
này hết sức hay! Nhưng sau khi đề ra, chưa từng
thiết lập trong nước, chẳng chính thức thành
lập. V́ thế, cụ Niệm Tổ dặn tôi hăy thành lập
tại hải ngoại: “Ông giảng kinh, hoằng pháp các
nơi, hy vọng ông có thể thành lập bộ môn Tịnh
Tông Học Hội ở các nơi”. Tịnh Tông Học Hội
đầu tiên được thành lập ở Vancouver là Gia
Nă Đại Tịnh Tông Học Hội, hiện thời vẫn
c̣n. Thứ hai là Mỹ Quốc Tịnh Tông Học Hội
được thành lập tại Sunnyvale, San Jose, California,
hiện vẫn c̣n tồn tại, do cư sĩ Dương
Nhất Hoa chủ tŕ. Sau đấy, tại Mỹ và Gia Nă
Đại, tôi thành lập tổng cộng hơn ba
mươi hội, chắc là hiện thời vẫn c̣n,
cũng có nơi chẳng c̣n. Tôi nghĩ là phải có mười
mấy hội tại Mỹ và Canada. Thành lập nhiều nhất
là ở Malaysia. Quốc gia Malaysia không lớn, nay sợ rằng
có hơn một trăm Tịnh Tông Học Hội, gần
tới hai trăm hội, nơi ấy có nhiều nhất!
Một nơi khác nữa là Âu Châu. Tôi biết ở Âu Châu, tại
các quốc gia chủ yếu, gần như đều có [học
hội], chẳng hạn như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban
Nha đều có. Tại Úc Châu h́nh như có mười mấy
chỗ. Trên thực tế, Tịnh Tông Học Hội có tánh
chất không khác ǵ liên xă thuở xưa, chỉ là thay đổi
tên gọi. Học hội không có tổ chức, không có quyền
quản trị theo hàng dọc; cho nên nhân sự, kinh tế,
hành chánh [của các học hội] hoàn toàn độc lập.
Phàm là Tịnh Tông Học Hội,
chúng ta đều là đồng đạo, đồng môn
hữu nghị, quan hệ hữu nghị; các hoạt động
theo quy mô lớn khi được yêu cầu, chúng ta đều
góp sức, hỗ trợ hợp tác, không giống những
giáo hội thông thường! Họ có tổng hội, phân
hội, chúng ta không có! Chúng ta không có hội nào là tổng hội,
hay hội nào là phân hội, không có! Mỗi hội đều
lớn như nhau, đều là bậc nhất, không có bậc
nh́. Thuở đức Thế Tôn tại thế, dạy học
bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
lập một tổ chức nào, thậm chí một trường
học cũng chẳng mở, cũng chẳng có lớp học
nào! Tinh thần này tốt đẹp, thật sự “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, chúng ta phải biết vĩnh viễn
ǵn giữ, phát dương quang đại, ḥng hoàn toàn
tương ứng với Tánh Đức. Đây là nói thêm về
ḷng yêu thương của các vị lăo nhân đối với
hậu thế, chỉ dạy chúng ta nên làm như thế
nào trong thời đại này.
Ấn Quang
đại sư nói càng hay hơn nữa. Tổ Ấn Quang
nói: Trong thời kỳ Mạt Pháp, cũng là nói trong thời
đại hiện tại này, đạo tràng không nên quá lớn,
đồng học chớ nên quá đông. Ngài dạy chúng ta:
Tốt nhất là đồng học đừng nhiều hơn
hai mươi người. Đúng thế, trong xă hội hiện
thời, cách này hay lắm, chi tiêu ít, hai ba vị hộ pháp
khá giả sẽ có thể chiếu cố
[đạo tràng]! Điều kiện đầu tiên của
người tu hành là: Thân an ổn, đạo mới
hưng thịnh. Quư vị muốn thân và tâm yên ổn, hết
thảy đều phải đơn giản hóa. Nếu đơn
giản, sẽ chẳng cầu cạnh ai, không sợ khổ.
Đức Phật dạy chúng ta hai điều kiện. Lúc
sắp viên tịch, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy các đệ
tử hai điều kiện từ nay trở đi:
- Thứ nhất
là phải tŕ giới, lấy Giới làm thầy.
- Thứ hai là lấy khổ làm thầy.
Quư vị không thể chịu
khổ, chẳng thể tŕ giới, sẽ chẳng đạt
được ǵ, [nếu có đạt được điều
ǵ], đó là giả, chẳng thật! Hai câu khai thị này
quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác, chúng ta có
làm được hay không? V́ lẽ ǵ người thuở
trước có thể làm được? Cuối đời
Thanh, đầu thời Dân Quốc, mọi người đều
có thể làm được, v́ sao người hiện thời
không thể làm được? Tôi suy nghĩ vấn đề
này rất lâu, tôi đă tới rất nhiều nơi, gặp
rất nhiều bạn học Phật trong nhà Phật chúng
ta, kẻ tại gia không hành Thập Thiện Nghiệp, hàng
xuất gia không hành Sa Di Luật Nghi, chúng tôi cảm thấy
rất tiếc nuối. Chúng ta truy t́m nguyên nhân v́ đâu? Truy
tới cuối cùng, t́m ra căn nguyên: Thiếu giáo dục!
Vào cuối
đời Thanh, đầu thời Dân Quốc, tức là
khoảng từ năm Dân Quốc 20 (1931) trở về
trước, tuy truyền thống văn hóa đă suy vi, ít
người nói tới, nhưng vẫn có người nhắc
tới, vẫn có người làm chuyện này, nên c̣n có cội
rễ! Cũng có thể nói là gia giáo[5] chưa hoàn toàn đoạn tuyệt, gia
giáo tại Trung Quốc là giáo dục tư thục. Quê chúng
tôi là đất văn hóa thịnh vượng vào thời
cổ, phái văn học Đồng Thành[6] thuộc quê hương chúng tôi, trong hai
thời Minh và Thanh đă xuất hiện rất nhiều
người tài năng. Tại nông thôn, trong các thôn trang, trẻ
nhỏ đều đi học, gần như không có trẻ
nhỏ thất học, trường học mở trong các
từ đường. Do có căn bản này, nên từ nhỏ
đă học biết quy củ, đọc các sách cổ, có
căn bản, tức là có căn bản về Nho học,
có căn bản đạo đức. “Đạo” [ở
đây] chính Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Đạo
tràng phổ biến nhất của Đạo gia là miếu
Thành Hoàng, sự giáo dục quan trọng nhất trong ấy
là Thập Vương Điện, [tức điện thờ]
Thập Điện Diêm Vương, dạy điều ǵ? Dạy
nhân quả. Phụ nữ ở nông thôn mỗi năm đến
miếu Thành Hoàng dâng hương cũng phải bốn
năm lượt. Thuở nhỏ, tôi theo mẹ, khi đó,
hăy c̣n rất bé, độ năm sáu tuổi, tới miếu
Thành Hoàng thắp hương, cha mẹ có cơ hội giáo
dục, bảo chúng tôi: “Khởi tâm động niệm, lời
nói, việc làm, cử chỉ đều đừng nên phạm
tội. Phạm tội th́ con thấy h́nh phạt là núi
đao, vạc dầu. Nói dối bị rút lưỡi”. Ấn
tượng này rất sâu, suốt đời cũng không thể quên! Lớn lên, khởi tâm động
niệm bèn nghĩ đến miếu Thành Hoàng, có những
chuyện quư vị chẳng dám làm. Cổ nhân Trung Quốc nói:
“Thiểu thành nhược thiên
tánh, tập quán thành tự nhiên” (Tập luyện từ
nhỏ sẽ trở thành tánh t́nh giống như bẩm
sinh, do thói quen trở thành tự nhiên). Giáo dục được
dưỡng thành từ nhỏ, sanh hiệu quả rất
lớn. Gặp chuyện, quư vị sẽ suy nghĩ xem chuyện
này có nên làm hay không, sau này c̣n có nhân quả ra sao, cho nên kinh sợ!
V́ vậy, học Phật, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
rất dễ tiếp nhận, rất dễ làm được!
Hiện thời v́ sao khó khăn dường ấy? Giáo dục
cơ sở truyền thống, giáo dục đặt nền
tảng căn bản đă bị vứt bỏ. Chúng ta
đánh nhau với Nhật Bản tám năm, [sự giáo dục
căn bản này bị bỏ mất], tôi cảm thấy tổn
thất khôn sánh. Sau này, chúng tôi dần dần tiếp xúc Phật
pháp, quay trở về truyền thống văn hóa, [nhận
biết] mối quan hệ giữa Nho, Thích và Đạo hết
sức mật thiết, vĩnh viễn chẳng có cách nào
tách rời! Sau khi tiếp xúc bèn hiểu rơ, [biết truyền
thống văn hóa] thật tốt đẹp! Trên khắp thế
giới không t́m đâu ra! Sau khi quư vị học rồi, mới
thật sự yêu thương đất nước, yêu
thương dân tộc, khắp thế giới không t́m
đâu ra được [nơi nào có mối quan hệ này].
....Nhiều
năm qua, chúng tôi tới nhiều quốc gia, qua lại với
người ngoại quốc, biết ḿnh, biết người,
chúng ta hiểu ưu điểm lẫn nhược điểm
của họ. Họ biết nhược điểm của
người Trung Quốc, nhưng không biết ưu điểm,
trừ một số ít nghiên cứu văn hóa và lịch sử
Trung Quốc là hiểu được, không ai chẳng bội
phục. Đó là [truyền thống văn hóa giáo dục]
nhân tánh, họ bội phục. Như học giả Thang Ân
Tỷ (Arnold J. Toynbee) đă nói rành rẽ: “Giải quyết vấn đề xă hội trong thế
kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng
Mạnh và Đại Thừa Phật pháp”, người
Anh đă nói như thế đó. Đúng vậy, chẳng giả
tí nào! Tôi tham dự hội nghị ḥa b́nh do Liên Hợp Quốc
chủ tŕ mười mấy lần; hiện thời, quốc
tế và xă hội quá rối ren, gần như đă tới
t́nh trạng không thể văn hồi, làm thế nào đây? Do
vậy, khi tôi giảng diễn tại Kiếm Kiều
(Cambridge), đă hỏi các đồng học: “Người
Anh nói như thế đó, những thứ trong Nho gia và Đại
Thừa Phật pháp thật sự có thể giải quyết
vấn đề hay chăng?” Các đồng học cười,
không ai trả lời! Tôi lại hỏi: “Hóa ra tiến
sĩ Thang Ân Tỷ nói trật lất rồi sao?” Cũng chẳng
có ai nói ǵ! Cuối cùng, tôi nêu quan điểm của ḿnh, tôi
nói: “Ông Thang Ân Tỷ nói không sai, đại khái là do chúng ta đă
đọc và hiểu sai!” V́ sao? Đối tượng nghe
tôi nói chuyện đều là sinh viên ngành Hán học, đều
nghiên cứu văn hóa truyền thống của Trung Quốc,
nghiên cứu rất nghiêm túc, chúng ta chẳng thể không bội
phục. Rất nhiều sinh viên thuộc ḷng Luận Ngữ,
tôi không thuộc Luận Ngữ, hoàn toàn thua họ. Họ
dùng kinh điển Nho gia hay kinh Phật để viết luận
án Tiến Sĩ. Trong đó, có một sinh viên cho tôi biết
anh ta dùng kinh Vô Lượng Thọ để viết luận
án Tiến Sĩ. Tôi nói: “Kinh Vô Lượng Thọ có chín phiên
bản khác nhau, anh dùng bản nào?” Anh ta dùng bản hội tập
của cụ Hạ Liên Cư, cùng một bản như chúng
ta đang học. Tôi nói: “Ngày hôm nay chúng tôi nhắc tới Khổng
Mạnh, ngay lập tức quư vị nghĩ đến Tứ
Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, nghĩ đến những
sách ấy. Nói đến Đại Thừa Phật học,
nhất định sẽ nghĩ đến Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Bát Nhă. Những kinh điển Đại Thừa ấy
đối với các vị rất quen thuộc, chúng có thể
giải quyết vấn đề xă hội trong hiện tại
hay không?” Không ai dám nói ǵ. Tôi bảo họ, [nghĩ như vậy]
là hiểu lầm!
Nhắc
tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc, quư
vị đều nghĩ tới những sách vở mang tánh
chất đại biểu, không sai! Tứ Thư, Ngũ Kinh,
mười ba kinh là đại biểu cho Nho gia. Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Bát Nhă, Pháp Tướng là đại biểu của Đại
Thừa Phật pháp, đúng vậy. Những thứ ấy
là hoa quả, thật đẹp, thật ưa nh́n, hoa quả
từ đâu ra? Mọc trên cành nhánh. Cành nhánh do đâu mà có? Cành
nhánh có cội rễ; cội rễ là ǵ? Cội rễ của
Phật pháp là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo chẳng dài; trong kinh, đức
Phật đă giảng rất rơ ràng: Thập Thiện Nghiệp
Đạo giống như đại địa, cây cối,
hoa, cỏ, đều sanh từ mặt đất. Như
vậy mới là đă t́m được cội rễ. Đức
Phật dùng điều này làm tỷ dụ. Pháp nhân thiên, Thanh
Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho đến
Vô Thượng Bồ Đề, đều sanh từ
đại địa này, t́m được cội rễ rồi.
Cội rễ của Khổng Mạnh là ǵ? Cội rễ của
Khổng Mạnh là Đệ Tử Quy. Cội rễ của
Đạo Giáo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên; ba thứ
này không ai nghĩ đến! Những thứ này có thể
sanh ra Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, có thể
sanh ra hết thảy các pháp Đại Thừa, sanh từ
đây. Quư vị t́m những thứ này, học từ đây,
hạ công phu là được, thật sự cứu được.
Để cứu xă hội hiện thời, ba loại cội
rễ này sẽ hữu dụng.
Hiện
thời, chúng tôi nghĩ tai nạn rất nhiều, trong kinh
luận, đức Phật đă dạy chúng ta: Nếu một
địa phương có đạo tràng, một đạo
tràng thật sự, chẳng giả. Đạo tràng thật
sự là ǵ? Là Lục Ḥa Kính. Quư vị thấy khi chúng ta thọ
tŕ Tam Quy, “quy y Tăng, chúng
trung tôn”, phải đọc lời thề này, câu này có
nghĩa là ǵ? Tăng là tăng đoàn, là đoàn thể. Đoàn
thể như thế nào sẽ được gọi là Tăng
đoàn? Tăng đoàn không nhất định là người
xuất gia! Mọi người học Phật nhất
định phải hiểu rơ điều này. Từ bốn
người trở lên, sống cùng một chỗ, đều
tu Lục Ḥa Kính th́ gọi là Tăng đoàn, hay Ḥa Hợp Chúng.
“Chúng” (眾) là từ bốn người trở
lên, người Trung Quốc gọi ba người là “chúng”,
nhưng trong Phật pháp, bốn người gọi là “chúng”.
Bốn người ấy nếu là gia đ́nh của quư vị,
gia đ́nh quư vị có bốn người, trong gia đ́nh tu
Lục Ḥa Kính th́ gia đ́nh quư vị là Tăng Đoàn.
Tăng Đoàn sanh ra hiệu quả ǵ? Thập
phương chư Phật hộ niệm, hết thảy long
thiên thiện thần ủng hộ. Nơi nào có đoàn thể
này, nơi ấy không có tai nạn, thật đấy, chẳng
giả đâu! Do vậy, “Tăng” không phải chỉ riêng người
xuất gia! Chư vị phải biết: Xuất gia và tại
gia đều như nhau, bốn người cùng tu hành một
chỗ [là Tăng đoàn]. Lục Ḥa Kính là ǵ? Chúng ta cũng
treo những điều này phía ngoài lầu mười, quư
vị vào đó sẽ thấy: “Kiến
ḥa đồng giải, giới ḥa đồng tu, thân ḥa đồng
trụ, khẩu ḥa vô tránh, ư ḥa đồng duyệt, lợi
ḥa đồng quân”, sáu điều ấy. Phải làm thế
nào mới có thể thực hiện những điều ấy?
Thưa quư vị, thực hiện ba món căn bản [của
Nho, Thích, Đạo như đă nói trên], sẽ thực hiện
được [Lục Ḥa Kính]. Nếu trong đoàn thể
nhỏ này, chúng ta thực hiện Đệ Tử Quy, thực
hành Cảm Ứng Thiên, thực hành Thập Thiện Nghiệp,
sẽ là Tăng đoàn ḥa hợp. Đoàn thể nhỏ
này có số lượng từ bốn người trở
lên; nếu nhiều th́ chẳng hạn chế số lượng,
tu hành trong đạo tràng này, đạo tràng này được
thập phương chư Phật hộ niệm, tất
cả long thiên thiện thần phù hộ. Có đạo
tràng như vậy hay không? Tôi học Phật năm
mươi chín năm rồi mà chưa hề thấy! Không
chỉ là chưa thấy, mà cũng chưa nghe nói tới! Tôi
chỉ nghe nói hai người xuất gia ở cùng một
chỗ hằng ngày đều căi nhau, đau buồn thay! Hiện
nay lắm tai nạn như thế, nếu
xuất hiện một Tăng đoàn như vậy, Hương
Cảng có một Tăng đoàn như vậy xuất
hiện, cả khu Hương Cảng này sẽ chẳng có
tai nạn. Quư vị có chịu phát tâm hay không? Chúng tôi đề
nghị: Người thật sự phát tâm hăy ghi danh, kư tên.
Trước đó, phải suy nghĩ cẩn thận, thật
sự thực hiện. Nếu không làm, đừng bỡn
cợt. Đùa bỡn tội rất nặng. Chúng ta chẳng
thể đ̣i hỏi người khác, phải từ chính
ḿnh làm, từ bản thân làm, làm từ đạo tràng nhỏ
này của chúng ta. Tôn trọng đạo tràng của người
khác, quyết định chẳng phê b́nh, quyết định
không can thiệp, quyết định chẳng nói người
khác là sai, hết thảy hăy từ chính ḿnh mà làm, từ đạo
tràng nhỏ của chúng ta mà làm. Hăy xem đạo tràng nhỏ
của chúng ta có ai ghi tên hay không? Có người phát tâm thật
sự làm hay không? Tai nạn lắm như vậy, làm thế
nào để cứu khu vực Hương Cảng? [Nếu]
Hương Cảng không có tai nạn, tôi tin tưởng vùng
duyên hải Trung Quốc sẽ không có tai nạn. Hướng
ra ngoài, từ Nhật Bản, Hàn Quốc tới Đài Loan,
Phi Luật Tân, dưới là đến Việt Nam, những
khu vực này cũng chẳng có tai nạn, quư vị nói xem:
Công đức này nhiều lắm! Hoàn toàn do chính ḿnh có chịu
phát tâm hay không, chịu thật sự làm hay không? Lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư suốt đời thường nói hai
chữ này, “chân cán” (thật
sự làm).
Thật
sự thực hành ba thứ căn bản ấy, chúng ta quy
y kinh Vô Lượng Thọ. Quy (皈) là quay đầu, Y (依) là dựa vào, dựa vào đạo lư được
giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, nương theo phương
pháp giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, nghiêm túc tu hành,
không ai chẳng sanh Tịnh Độ. Sanh vào Tịnh Độ
là thành Phật trong một đời. Nói cách khác, quư vị
thành Phật trong đời này, công đức viên măn;
nhưng quư vị phải ghi nhớ: Muốn thật sự
viên măn, ba món căn bản này rất trọng yếu. Có
người cho tôi biết dường như người
chẳng có ba căn bản này, nghe nói cũng văng sanh, có t́nh
h́nh này hay không? Có! Nhưng ba căn bản của người
ấy chẳng lộ rơ! Người ấy có hay không? Chắc
chắn là có; nếu không, làm sao có thể văng sanh, đâu có
lẽ này? Nói tới một bà cụ già niệm Phật
văng sanh, suốt đời cũng chưa hề học Phật,
cũng chẳng hề học Đạo, mà cũng chẳng
hề học Nho, chuyện ǵ cũng chẳng biết. Quư vị
lấy tiêu chuẩn của Đệ Tử Quy để
xem xét, bà cụ có phạm một điều nào hay chăng?
Quư vị nghiêm túc kiểm tra, bà cụ chẳng phạm một
điều nào, tuy chưa từng học! Thập Thiện
Nghiệp chưa hề học, nhưng người này đúng
là thiện nhân, trọn đủ! Quư vị quan sát cẩn
thận, mới phát hiện: Người văng sanh, người
niệm Phật văng sanh, bất luận có học hay không, biết
chữ hay không, đều là người rất có đức
hạnh, đều thật sự là thiện nhân mới có
thể văng sanh. Kẻ tâm hạnh chẳng lành, lắm
mưu mô, rất khó văng sanh. V́ sao? Quư vị chẳng thể
đến thế giới Cực Lạc là nơi chư
thượng thiện nhân hội họp. Quư vị vẫn
dấy ḷng tính toán, làm sao có thể văng sanh cho được?
Quư vị khởi tâm động niệm, Phật, Bồ
Tát biết ngay, chư thượng thiện nhân ai nấy đều
biết. Thật à? Thật đấy! Sách Hoàn Nguyên Quán dạy
chúng ta thế này: Trong tâm của hết thảy chúng sanh vừa
mới dấy một niệm, niệm ấy bèn trọn khắp
pháp giới. Tốc độ quá nhanh, xứng tánh, nhưng
bản thân chúng ta không biết! Bất luận niệm ǵ,
chỉ cần niệm vừa dấy lên, sẽ có ba thứ
trọn khắp:
- Thứ nhất là tin
tức này trọn khắp pháp giới.
- Thứ hai là xuất
sanh vô tận.
- Thứ ba là chứa
đựng cả Không lẫn Có.
Trong một niệm bèn
có ba thứ trọn khắp. Quư vị không có cách nào tưởng
tượng phạm vi trọn khắp ấy, người
Trung Quốc có hai câu nói h́nh dung hết sức hay: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ
tiểu vô nội” (không có ǵ lớn mà ra ngoài, không có ǵ nhỏ
mà chẳng lọt vào trong). Hai câu này rất nhiều người
nghe đă quen tai, cũng đều có thể nói, nhưng
trên thực tế, rất khó nói rơ ư nghĩa! “Kỳ đại vô ngoại”
là không có ngằn mé, nhưng “kỳ
tiểu vô nội” khó hiểu! Kinh Hoa Nghiêm đă giảng
rất hay, thế nào là “vô nội?”
Trong một hạt vi trần có thế giới, thế giới
như thế nào? To như thế giới bên ngoài! Trong vi trần
có thế giới, thế giới trọn chẳng rút nhỏ,
vi trần chẳng ph́nh to, vẫn như vậy, chẳng lớn
hay nhỏ! Thế giới trong vi trần lại có vi trần,
trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận,
gọi là “kỳ tiểu vô nội”.
Quư vị truy t́m đến tột cùng được
chăng? T́m không được, cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn! Đức Phật chẳng nói dối, v́
sao? Quư vị kiến tánh sẽ thấy được, bèn
hiểu rơ. Quư vị chưa kiến tánh, nghĩ cách nào
cũng nghĩ không ra, đều chẳng thể tư duy
được! Do vậy, gọi là chẳng thể
nghĩ bàn, [tức là] chẳng thể nghĩ, chẳng thể
tưởng, cũng chẳng có cách nào bàn luận, xứng tánh
mà! Thứ ǵ chẳng xứng tánh? Thứ nào cũng đều
xứng tánh, chỉ là do chúng ta mê, nên bất giác!
Ở
đây nói tới bản hay nhất, bản tiêu chuẩn tốt
nhất, trong bản này không có chữ sai. Sợ nhất là sách
bị sai chữ, trong bản này không có chữ sai, đó
chính là bản tốt nhất. Nghĩa lư chẳng bị khiếm
khuyết, lớp lang hoàn chỉnh, phương pháp tinh tế.
Chiếu theo lư luận và phương pháp này tu hành, quư vị
có thể đạt được lợi ích chân thật.
Lợi ích chân thật quan trọng nhất là: Quư vị liễu
giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, buông
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
liền khế nhập cảnh giới, đó gọi là “liễu nghĩa rốt ráo”. Chúng
ta thường gọi khế nhập cảnh giới là “chứng quả” hay “thành Phật”, có ư nghĩa
như vậy!
Chúng ta xem
câu tiếp theo. “Vô Lượng
Thọ kinh năi Tịnh Tông chi tổng cương” (kinh Vô
Lượng Thọ là tổng cương lănh của Tịnh
Tông): “Cương” (綱) là cương lănh, [tổng
cương] là tổng cương lănh; do vậy, được
gọi là “Tịnh Tông đệ
nhất kinh”. Kinh Tịnh Tông không nhiều lắm. Trong tất
cả các tông phái, chỉ có Tịnh Độ Tông là kinh
điển ít nhất, chỉ có ba bộ kinh, một bộ
luận, đó là [nói về] lúc xưa. Ba bộ kinh, thứ
nhất là kinh Vô Lượng Thọ, thứ nh́ là Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh, c̣n gọi là Thập Lục Quán Kinh, thứ
ba là A Di Đà Kinh, phân lượng đều rất ít; một
luận là Văng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, tam kinh
nhất luận! Một luận chính là báo cáo tâm đắc
về việc tu Tịnh Độ, văng sanh thế giới
Cực Lạc của Thiên Thân Bồ Tát để chúng ta
tham khảo. Hiện thời th́ sao? Hiện thời là
ngũ kinh nhất luận, ngũ kinh do đâu mà có? Ba kinh
là do Phật nói, ngũ kinh là trong niên hiệu Hàm Phong nhà
Thanh; vợ vua Hàm Phong là Từ Hy Thái Hậu mọi người
đều biết, nói đến Hàm Phong th́ chẳng mấy
ai biết đến! Nói Từ Hy Thái Hậu rất nhiều
người biết, chồng Từ Hi Thái Hậu là Hàm Phong.
Trong niên hiệu Hàm Phong, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm, trong
phần sau sẽ giới thiệu, vị lăo cư sĩ này
cũng rất giỏi, đem quyển cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm, không phải là một phẩm, quyển cuối
cùng [của kinh Hoa Nghiêm] là mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, đem quyển cuối cùng này của kinh Hoa
Nghiêm, tức là rút ra một chương trong một phẩm
này, ghép vào sau Tịnh Độ Tam Kinh, trở thành Tịnh
Độ Tứ Kinh. Do vậy, nếu sau này, quư vị thấy
trong Phật môn có Tịnh Độ Tứ Kinh, quư vị biết
đó là do ông Ngụy Mặc Thâm thêm vào. Thêm hay lắm! V́
sao thêm vào rất hay? Trong kinh Vô Lượng Thọ, đặc
biệt là trong bản hội tập của cụ Hạ, chúng
ta thấy phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền,
một chương ấy. Quả thật kinh Hoa Nghiêm
đến cuối cùng trở về Tịnh Độ, trở
về kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy, ông ta thêm thiên ấy
vào hay lắm. Đó là Tịnh Độ Tứ Kinh.
Ngũ
kinh là do Ấn Quang đại sư [đề xướng],
vị này thuộc thời cận đại, Ấn Quang
đại sư cách chúng ta không xa, năm Dân Quốc hai
mươi mấy Ngài mới văng sanh[7]
trong thời gian Kháng Chiến. Ngài đem chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
trong phần Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông của kinh Lăng
Nghiêm, đem đoạn kinh văn ngắn này ghép vào sau Tịnh
Độ Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ Ngũ
Kinh. Cách làm này chẳng thể nghĩ bàn! Tịnh Độ
có cần thêm kinh điển nào khác nữa hay không? Không cần!
Đến đây là đă viên măn. V́ sao? Hai trăm bốn
mươi bốn chữ, tôi đă nói với quư vị, đó
là Tâm Kinh của Tịnh Độ Tông, mà cũng là Tâm Kinh của
toàn bộ giáo pháp trong Đại Tạng Kinh. Đấy
cũng là như Thiện Đạo đại sư lăo
nhân gia thường nói: “Chư
Phật sở dĩ xuất hiện trong thế gian chỉ
v́ để nói biển bổn nguyện của Phật Di
Đà”. Cách làm này của Ấn Quang đại sư
đă khiến cho chúng ta hoàn toàn hiểu rơ câu nói ấy của
Thiện Đạo đại sư. Phương pháp bậc
nhất của hết thảy chư Phật ứng hóa trong
mười pháp giới, phổ độ chúng sanh trong
mười pháp giới của hết thảy các cơi Phật
là ǵ? Là tŕ danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
thích hợp khắp ba căn, gồm thâu độn căn
lẫn lợi căn, đó là pháp môn tuyệt diệu! Cực
đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng,
ai cũng có thể tu, ai cũng đều có thể thành tựu.
Thiện Đạo đại sư nói pháp môn này “vạn tu, vạn người đến”,
chẳng sót một ai!
V́ sao
người tu Tịnh Độ đông như thế,
người văng sanh ít như vậy? Có mâu thuẫn với [lời
nhận định của] Thiện Đạo đại
sư hay không? Thưa quư vị, không! Do nguyên nhân nào? Quư vị
tu hành chẳng đúng pháp, đúng lư! Lỗi tại quư vị,
chẳng phải do pháp môn, không do kinh điển. Nếu quư
vị tu đúng pháp, đúng lư, thật sự là “vạn người tu, vạn người
đến” chẳng sót một ai! Kinh Di Đà đă dạy
rất rơ ràng: “Không thể dùng
chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để
sanh về cơi ấy”. Thiện căn là ǵ? Phước
đức là ǵ? Nhân duyên là ǵ? Nay chúng ta trọn đủ
nhân duyên, được làm thân người là nhân duyên, gặp Phật pháp là nhân duyên, gặp Đại
Thừa là nhân duyên, gặp kinh Hoa Nghiêm, gặp Tịnh
Độ là nhân duyên phi phàm, duyên trọn đủ. Vấn
đề ở đâu? Thiện căn, phước đức.
Thiện căn là ǵ? Tín giải. Quư vị có thật sự
tin tưởng hay không? Đối với pháp này, quư vị
c̣n có vấn đề nào hay không? Nếu c̣n có hoài nghi, thiện
căn của quư vị có vấn đề. Quư vị có hiểu
rơ đạo lư Tịnh Tông hay không? Không thấu triệt,
hiểu rơ; hiểu rơ sẽ giúp quư vị tin tưởng. Sở
dĩ quư vị có hoài nghi là do chưa lư giải thấu triệt.
Thật sự hiểu rơ, minh bạch, sẽ chẳng hoài
nghi. Quư vị có tín giải, tín giải là thiện căn.
Phước đức là ǵ? Thật sự hành! Người
thật sự hành có phước đức. Quư vị chẳng
thật sự hành, vẫn chưa buông thế gian này xuống
được, c̣n lưu luyến, vậy là xong luôn! Quư vị
cũng rất khó thành tựu. V́ thế, kinh không có khuyết
điểm, lư luận và phương pháp đều không có
khuyết điểm. Khuyết điểm là do phiền
năo và tập khí của chính ḿnh. Nếu buông những thứ
ấy xuống, chắc chắn quư vị đạt
được Tịnh Độ ngay trong một đời
này!
Tiếp đó,
cụ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn lời ông Bành Thiệu
Thăng (Bành Tế Thanh): “Ngă quốc
Thanh đại Bành Thiệu Thăng cư sĩ tán viết:
Vô Lượng Thọ kinh giả, Như Lai xứng tánh chi Viên
Giáo, chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi” (vào đời Thanh,
cư sĩ Bành Thiệu Tăng của nước ta đă
ca ngợi: “Kinh Vô Lượng Thọ là Viên Giáo xứng tánh
của Như Lai, là cơ nghi hóa độ chúng sanh sẵn
có”). Mấy câu này hết sức quan trọng! “Như Lai” là những vị minh
tâm kiến tánh trong mười phương, đó là chư
Phật Như Lai. Kinh Vô Lượng Thọ là lời bàn luận
xứng tánh, từng câu, từng chữ đều từ tự
tánh lưu lộ, từng câu, từng chữ đều
viên măn, nên gọi là Viên Giáo. Tự tánh của hết thảy
chư Phật Như Lai và tự tánh của hết thảy
chúng sanh là một tánh, chẳng phải hai tánh. Do vậy, trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật nói đến
tự tánh thường thường dùng biển làm tỷ
dụ, [chẳng hạn như] “tánh
hải”. Mỗi một chúng sanh khác nhau giống như một
bọt nước trong biển cả, bọt nước
do đâu mà sanh ra? Từ biển sanh ra. Từng bọt
nước nếu không bị vỡ tan, dường
như có đối lập. Chỗ này là một bọt, chỗ
kia là một bọt khác. Sau khi bọt nước vỡ
tan, tất cả đều là biển cả. Người
thông minh chẳng cần chờ [đến lúc] bọt nước
vỡ, toàn là nước biển, mỗi bọt nước
đều là nước biển, nước biển là tự
tánh. Do vậy, trong kinh, đức Phật thường nói:
“Thập phương tam thế
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất
trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên” (mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân,
một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế),
không có ǵ chẳng giống nhau, v́ sao? Quư vị chẳng ĺa
tự tánh. Câu này đă đem Thật Tướng của
các pháp nói huỵch toẹt trong một lời, chúng ta và hết
thảy chúng sanh có quan hệ ǵ? Một Thể, một tự
tánh! Quư vị nói xem: Quan hệ này có mật thiết lắm
hay không? V́ sao có sai biệt nhiều như thế? Do mê hay ngộ
khác nhau! Ngộ bèn biết chúng ta là một Thể, c̣n thân
thiết hơn người một nhà, một Thể mà!
Khi mê mới chia ra ta, ra người, mới có phân biệt,
mới có chấp trước, mới tạo nghiệp, mới
chuốc lấy những quả báo oan uổng. Oan uổng
luân hồi trong lục đạo, là cảnh giới trong mộng,
chúng chẳng thật. Thật sự tham thấu th́ giấc
mộng ấy cũng chẳng rời khỏi tự tánh. Do
vậy, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
chẳng ĺa tự tánh, đều do tự tánh hiện.
Do vậy,
ông ta (Bành Tế Thanh) nói: “Chúng
sanh bổn cụ chi hóa nghi”, nay ta gọi “nghi” (儀) là phương thức hay h́nh thức.
Nay chúng ta dạy bảo học tṛ, dùng h́nh thức như
thế nào. Nay chúng ta biết: Đối với trẻ nhỏ,
trẻ thơ, chúng ta lập ra vườn trẻ, mở
trường Tiểu Học, tùy theo độ tuổi của
chúng, rồi lại mở trường Trung Học, mở
Đại Học, rất giống phương thức ấy.
Đó gọi là “hóa nghi”. Trừ
hóa nghi ra, c̣n có “hóa pháp”, “pháp” là phương pháp dạy
học. Chúng sanh căn tánh khác nhau; đối với
căn tánh khác nhau, dùng phương pháp ǵ để dạy
họ? V́ thế, nhà Phật nói tới hóa nghi và hóa pháp. Thích
Ca Mâu Ni Phật bốn mươi chín năm
dạy học tṛ, xét theo phương diện hóa nghi:
Trước hết, sau khi khai ngộ, Ngài giảng A Hàm
mười hai năm. A Hàm giống như Tiểu Học của
Phật giáo, giảng điều ǵ? Giảng pháp nhân thiên,
giảng cách làm người như thế nào, cũng
như ngày nay chúng ta nói là giảng luân lư, giảng đạo
đức, giảng nhân quả. Trong kinh A Hàm, những thứ
giáo học này rất nhiều, chú trọng những điều
đó. Đến thời kỳ Đại Thừa, dần
dần thảo luận vũ trụ và nhân sinh, nay chúng ta gọi
là Triết Học và khoa học, đều giảng đến
viên măn rốt ráo. Vũ trụ do đâu mà có? Vạn pháp từ
đâu ra? Ta từ đâu đến? Giảng thật rơ
ràng, minh bạch, quả thật chẳng dễ dàng! Cho tới
hiện thời, bao nhiêu khoa học gia, triết học gia,
tôn giáo gia trên thế giới đang nghiên cứu vấn
đề này, đều chẳng t́m được câu trả
lời, vẫn là có những vấn đề tồn đọng,
chỉ riêng Đại Thừa Phật pháp giảng rơ ràng,
giảng minh bạch, chẳng có nghi hoặc!
Bởi lẽ,
thuở ấy tôi học Triết Học, Phương tiên
sinh giảng Triết Học trong kinh Phật cho tôi nghe, cụ
bảo tôi, theo cách nh́n của cụ: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại
nhất trên thế giới; kinh Phật là đỉnh cao nhất
của Triết Học trên cả thế giới”. Đây
là nguyên văn lời cụ nói, cụ bảo tôi như thế
này: “Học Phật là hưởng
thụ tối cao trong đời người”, cụ dẫn
tôi tiến vào Phật môn. Lại c̣n đặc biệt bảo
tôi, câu nói này rất trọng yếu. Nếu không, tôi sẽ
mê hoặc, sẽ hoài nghi, sẽ nh́n những kẻ học
Phật học như thế nào, chân tướng có đúng
như Phương tiên sinh nói hay chăng? V́ thế, câu nói
sau đây của Phương tiên sinh quan trọng lắm, cụ
bảo: “Triết Học trong
kinh Phật ở trong kinh điển, không ở trong chùa
chiền”! Câu này hết sức trọng yếu. V́ sao không
ở trong chùa chiền? Người trong chùa chẳng học!
Xưa kia, cổ đại đức trong chùa chiền thật
sự rất phi phàm, v́ sao? Họ học thật sự. Nay
th́ sao? Người xuất gia trong chùa chiền hiện thời
chẳng học, biến [Phật giáo] thành tôn giáo. Xuất
gia để làm ǵ? Xuất gia để giao tiếp quỷ
thần, lo siêu độ, làm Phật sự, pháp hội, làm
những chuyện này. Những chuyện này có cần phải
làm hay không? Cần chứ! Nhưng phải nên làm như thế
nào? Vào trong quỷ đạo để làm, c̣n trong nhân
đạo hăy lo dạy con người. Quỷ đạo có
hay không? Có! Phật, Bồ Tát ở trong quỷ đạo;
quư vị thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát:
“Địa ngục bất không,
thệ bất thành Phật” (Địa ngục chẳng
trống, thề chẳng thành Phật). Quư vị thấy
làm lễ Diệm Khẩu, Tiêu Diện Đại Sĩ
đối diện với Diệm Khẩu là ai? Là Quán Thế
Âm Bồ Tát, hiện thân quỷ trong quỷ đạo
để độ quỷ đạo. Nên hiện thân ǵ
để đắc độ, bèn hiện thân ấy, thân đang
ở trong nhân gian th́ phải dạy con người, sao lại
dùng thân người để dạy quỷ? Đâu có lẽ
ấy! Dùng thân quỷ cũng chẳng thể dạy
người.
Do vậy,
Phật, Bồ Tát ứng hóa chẳng thể nghĩ bàn, nên
dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy,
nên dạy họ điều ǵ sẽ dạy họ điều
ấy! Phải biết điều này không do chính các Ngài quyết
định, mà do người ấy cảm, Phật bèn ứng,
tự nhiên cảm ứng đạo giao. Giống như tiến
sĩ Giang Bổn Thắng (Masaru Emoto) của Nhật Bản làm
thí nghiệm với nước, chúng ta dùng thiện tâm để
cảm, quư vị thấy nước đáp ứng bằng
kết tinh đẹp nhất. Chúng ta dùng ác niệm để
cảm, nó đáp ứng bằng h́nh thái rất khó coi. Chư Phật, Bồ Tát đối
với tất cả chúng sanh cũng như vậy! Họ
dấy lên niệm ǵ để cảm các Ngài, các Ngài bèn ứng
như thế. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế
gian, tuyệt đối chẳng có cách suy tưởng hay
nghĩ ngợi nào. Nếu có cách suy tưởng hay nghĩ
ngợi, sẽ là phàm phu. Phàm phu mới có cách suy tưởng
và nghĩ ngợi, Pháp Thân Bồ Tát là bậc kiến tánh, chắc
chắn không có, v́ sao? Kiến tánh th́ điều kiện
đầu tiên là đoạn trừ khởi tâm động
niệm. Không khởi tâm, chẳng động niệm, c̣n
có cách suy tưởng hay cách nh́n ǵ nữa đây? Không có!
Đó gọi là “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Do vậy, chúng sanh có tâm cảm, Phật
vô tâm ứng, nên gọi là “xứng
tánh”, tự tánh tự nhiên sẽ có ứng. V́ thế,
chúng ta phải hiểu ư nghĩa hóa nghi và hóa pháp này. Nói thông
thường, trong khi học tập, chúng ta cũng thường
nói “hóa ác thành lành”. Nay chúng ta
giúp đỡ người khác, bước đầu tiên
là dạy kẻ ấy, giúp kẻ ấy sửa đổi.
“Hóa” (化) ở đây là biến hóa khí chất,
là giáo học nói theo mặt quả. Mục tiêu cuối cùng
của giáo học là biến hóa khí chất của người
được dạy. Nói cụ thể, biến hóa ác niệm,
lời nói ác và hành vi ác thành thiện niệm, thiện hạnh,
tức là chúng ta dạy học thành công! Đấy là bước
đầu tiên. Tiến thêm bước nữa, chính là hóa mê
thành ngộ, đấy mới thật sự là Phật
pháp. Hóa ác thành thiện là thế gian pháp, hóa mê thành ngộ mới
có thể xuất thế gian, thật sự giác ngộ. Cuối
cùng là hóa phàm thành thánh, tiến lên cao hơn từng bước
một!
Xét về
phần tài liệu, có thể nói là Hoàng lăo cư sĩ rất
dụng tâm, hết sức phong phú, tận tâm tận lực
sưu tập. Tiếp theo đó, cụ trích dẫn lời
pháp sư Đạo Ẩn của Nhật Bản tán thán kinh
Vô Lượng Thọ: “Như
Lai hưng thế chi chánh thuyết” (là chánh thuyết do
đức Như Lai xuất hiện trong cơi đời [nhằm
nói ra]), “hưng” (興) là hưng khởi (興起), ư nghĩa tương đồng với
lời Thiện Đạo đại sư. Thiện Đạo
đại sư nói: “Như Lai
sở dĩ hưng xuất thế”. Chữ “hưng” này là “hưng khởi”, xuất hiện trên thế gian, “duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (chỉ để nói biển bổn nguyện của
Phật Di Đà), bốn mươi tám nguyện của A
Di Đà Phật phổ độ chúng sanh. Tôi không tra tài liệu
xem vị Đạo Ẩn này là người thời nào, v́
Tịnh Độ Tông Nhật Bản là từ Thiện
Đạo đại sư truyền sang. Vào thời Đường,
có nhiều cao tăng Nhật Bản sang Trung Quốc du học;
lúc ấy, Thiện Đạo đại sư c̣n tại
thế. Do vậy, tại Nhật Bản, Thiện Đạo
đại sư rất nổi danh. Ngài chẳng nổi tiếng
tại Trung Quốc, chứ ở Nhật Bản, Ngài rất
nổi tiếng. Nhật Bản có rất nhiều ngôi chùa
mang tên Thiện Đạo Tự. Quư vị thấy Thiện
Đạo Tự, biết đó là Tịnh Độ Tông.
Đài Bắc c̣n có một ngôi Thiện Đạo Tự, được
thành lập vào thời Nhật Bản thống trị
[Đài Loan], đấy là đạo tràng Tịnh Độ
Tông. Do vậy, câu nói này có lẽ phỏng theo Thiện Đạo
đại sư. Sư nói: “Như
Lai hưng thế chi chánh thuyết” th́ nói cách khác, hết
thảy các kinh khác do đức Phật đă nói, hết thảy
các kinh trong bốn mươi chín năm đều là “bàng thuyết” (nói kèm thêm), kinh
này mới là chánh tông. Kinh Vô Lượng Thọ là chánh tông, những
kinh khác đều nhằm phù trợ kinh Vô Lượng Thọ,
có ư nghĩa này, đây mới là chánh thuyết. V́ thế, quả
thật qua lời tựa của đại sĩ Mai Quang Hy,
chúng ta thấy các vị đại đức thời Tùy -
Đường đều thừa nhận: Ngay cả kinh Pháp
Hoa và kinh Hoa Nghiêm đều nhằm dẫn dắt chúng ta
quy hướng Tịnh Độ. Quư vị đọc phần
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn
về Cực Lạc. V́ vậy, ông Ngụy Mặc Thâm ghép
quyển cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm vào cuối tam kinh,
gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh là có lư, chẳng phải
bàn căi ǵ nữa, chúng ta hai tay tán thành hành động này! Kinh
Hoa Nghiêm quy vào kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh Pháp Hoa, long
nữ tám tuổi thành Phật, cũng do nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh, Cô ta nghe hiểu rồi,
cũng cầu sanh Tịnh Độ. Đây là như Ấn
Quang đại sư đă nói: “Ngàn
kinh vạn luận, chỗ nào cũng chỉ quy”. Do vậy,
nói kinh này là chánh thuyết, xác thực là có căn cứ.
“Kỳ đặc tối thắng
chi diệu điển” (bộ kinh điển mầu nhiệm lạ lùng, đặc
biệt, thù thắng nhất). “Kỳ
đặc”, tối thắng là thù thắng khôn sánh, hết
thảy các kinh chẳng thể sánh bằng, kể cả
kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, tuy [hai kinh ấy] đều là Đại
Thừa, đều là kinh Nhất Thừa, nhưng đâu có
thù thắng như pháp môn này! “Nhất
Thừa cứu cánh chi cực thuyết” (giảng về
Nhất Thừa rốt ráo đến tột cùng), nói rơ chỗ
lạ lùng đặc biệt ở nơi nào, thù thắng
nhất ở chỗ nào. Kinh này đúng giáo pháp Nhất Thừa.
Giáo pháp Nhất Thừa là thành Phật trong một đời,
được kinh này giảng đến chỗ viên măn rốt
ráo. “Tốc tật” (速疾) là nhanh chóng. Trong các pháp môn, tức là các
pháp môn của các tông phái thông thường, thời gian tu học
đều phải rất lâu, chỉ riêng pháp môn này chẳng
cần một thời gian rất dài. Trong các pháp môn khác, tu
hành phải mất vô lượng kiếp mới có thể
đào thải hết sạch phiền năo tập khí, Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Vô Minh phiền
năo. Quư vị chẳng đoạn hết phiền năo, làm sao
có thể hoàn nguyên? Hết vọng mới hoàn nguyên. Kinh Hoa
Nghiêm gọi những phiền năo ấy là “vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước”, dùng những danh từ
này. Vọng tưởng là Vô Minh phiền năo, phân biệt là
Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. Những danh từ này đều có thể
tra trong Phật Học Đại Từ Điển.
Đào thải hết sạch, đoạn hết Kiến
Tư phiền năo, bèn chứng A La Hán, vượt thoát lục
đạo. Ngoài lục đạo là tứ thánh pháp giới,
lục đạo là giới hạn, ở trong lục
đạo th́ gọi là nội phàm, là phàm phu, [nội phàm] tức
là phàm phu trong lục đạo. Tứ thánh pháp giới gọi
là ngoại phàm, ở ngoài lục đạo, nhưng vẫn
phàm phu, chưa phải là thánh nhân. Phàm và thánh sai biệt ở
chỗ nào? Một đằng dùng chân tâm th́ là thánh nhân, [một
đằng] dùng vọng tâm là phàm phu. Vọng
tâm là dùng A Lại Da Thức. Phải biết: Trong tứ
thánh pháp giới, ngoài A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, c̣n
có Phật, [tức là] trên đó c̣n có Phật, [nhưng Phật
trong tứ thánh pháp giới] hoàn toàn dùng A Lại Da. V́
thế, gọi là “ngoại phàm”, tức phàm phu ở ngoài lục
đạo! Tuy họ dùng vọng tâm, vọng tâm này được
dùng rất chánh đáng, rất giống chân tâm. V́ sao dùng rất
chánh đáng, rất giống chân tâm? Đều do học Phật,
dung hội lư luận được giảng trong kinh Phật
vào nội tâm của chính ḿnh, tức là vào trong A Lại Da, biến
[những lư luận ấy] thành những chủng tử
trong A Lại Da, nên khi thực hiện, từng điều
trong Giới Luật đều được thực hiện
rơ rệt, đều làm rất khá, hết sức giống
Phật. Do vậy, tứ thánh pháp giới được gọi
là “tương tự tức”,
[nghĩa là] rất giống, làm rất giống, nhưng
chưa phải là thật sự. V́ sao chưa phải là thật
sự? Chưa chuyển Thức thành Trí, chưa chuyển được! Đấy chính là
như kinh Bát Nhă đă dạy: “Pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp c̣n
nên bỏ, huống chi phi pháp). Giáo lư giảng trong kinh quư vị
làm được, làm tốt đẹp, nhưng vẫn là
phàm phu, có thể ra ngoài lục đạo, nhưng chưa
ra khỏi mười pháp giới. Nếu muốn ra khỏi
mười pháp giới, phải buông những thứ này xuống.
Pháp c̣n nên bỏ, hà huống phi pháp! Phật pháp cũng bỏ
luôn, sẽ thoát khỏi mười pháp giới, phải biết
điều này!
V́ thế,
quư vị thấy kinh này tuyệt lắm! Phương pháp
tu hành trong kinh này, đầu tiên là như trong tựa đề
kinh này, nửa đầu là quả báo, nửa sau là tu nhân. Nửa
đầu là “Đại Thừa”,
Đại Thừa là ǵ? Đại Thừa là trí huệ, tức
trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh. “Vô lượng thọ” là đức, “trang nghiêm” là tướng. Kinh
Hoa Nghiêm dạy: “Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, trí huệ là Đại Thừa, đức là
vô lượng thọ, tướng là trang nghiêm. Đây là
trên mặt quả, hết thảy chúng sanh đều có.
Chúng ta khôi phục chúng như thế nào? “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là Tu Đức.
Chúng ta tu hành là tu ǵ? Tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thành tựu
bằng giới luật. Tâm b́nh đẳng thành tựu bằng
Thiền Định. Giác thành tựu từ Bồ Đề.
Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. V́ vậy, tu “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, chứng “Đại Thừa vô lượng thọ trang nghiêm”,
ngay trong tựa đề kinh [đă nêu ra cương lănh tu
hành và thành tựu nơi quả địa].
Bởi lẽ
đó, tại Trung Quốc lẫn ngoại quốc, các tổ
sư đại đức đă nói rất tuyệt, nói thật
hay: “Nhất Thừa cứu
cánh chi cực thuyết, tốc tật viên dung chi kim ngôn”
(Lời giảng về Nhất Thừa rốt ráo đến
tột bậc, là lời vàng viên dung nhanh chóng). Chữ “kim” này được dùng rất
nhiều trong kinh Phật, quư vị phải hiểu ư nghĩa.
Kim có nghĩa là ǵ? Vàng chẳng thay đổi. Kim loại
đều bị oxide hóa, đều bị đổi màu,
chỉ ḿnh hoàng kim không thay đổi, quư ở chỗ này. V́
thế, Phật pháp dùng “kim”
theo ư nghĩa “không thay đổi”. “Kim thân” vĩnh hằng bất hoại, là chân thân, dùng
theo ư nghĩa này; chứ không phải là thật sự
sơn thành màu vàng ṛng. Hiện thời, trong chùa chiền,
tượng Phật mạ vàng, nhằm biểu thị pháp.
[Da] Phật có thật sự giống như màu vàng mạ
hay không? Màu ấy cũng trọn chẳng dễ coi! Phải
hiểu đó là biểu thị pháp, vĩnh hằng không
thay đổi, là xứng tánh. Thân ấy có hay không có? Có!
Trong cơi Thật Báo th́ có, trong cơi Thật Báo của chư Phật
Như Lai, cơi Thật Báo trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thân tướng của quư vị vĩnh viễn
không thay đổi. [Nhân dân trong] Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng sanh từ bào thai, chẳng phải
là từ trẻ nhỏ dần dần trưởng thành. Chẳng
phải! Họ là hóa sanh, hóa sanh đến nơi ấy trong
hoa sen. Hóa thân có h́nh dáng như thế nào? Dáng vẻ chẳng
khác A Di Đà Phật cho mấy, chỗ này là pháp b́nh đẳng.
Hiện thời, chúng ta vẽ Tây Phương Cực Lạc
thế giới, vẽ A Di Đà Phật đặc biệt
to, vẽ Bồ Tát nhỏ hơn một chút, người văng
sanh lại vẽ nhỏ hơn chút nữa. Điều này
cũng không đúng pháp, to như nhau! Đâu có to hay nhỏ
như vậy! Thật sự có to hay nhỏ, sẽ chẳng
b́nh đẳng, to như nhau! Vĩnh hằng không thay đổi,
họ là hóa sanh. Do những điều này,
quư vị đọc kinh giáo nhiều hơn, sẽ dần
dần hiểu rơ, sẽ thấy ư nghĩa được
thật sự bao hàm ở đây.
V́ sao
không bị biến hóa? V́ chẳng có ư niệm, đạo
lư ở chỗ này! Quư vị hiểu đạo lư này, sẽ
tin tưởng. Biến hóa do đâu mà có? Biến hóa là “duy thức sở biến, duy tâm
sở hiện”. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm chỉ có duy tâm
sở hiện, không có duy thức sở biến, đă chuyển
Thức thành Trí, cho nên chẳng biến. Quư vị không có ư
niệm, sẽ chẳng khởi tâm động niệm. Khởi
tâm động niệm sẽ biến; chẳng khởi tâm,
không động niệm, làm sao biến? Sẽ chẳng biến,
vĩnh hằng không thay đổi. Hoa, cỏ, cây cối
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh
viễn chẳng điêu tàn, vĩnh viễn chẳng biến
chất, đạo lư ở chỗ này! Cư dân nơi ấy
vẫn chưa phải là cảnh chuyển theo tâm ư? Cư
dân nơi ấy mỗi người đều minh tâm kiến
tánh. Nói “minh tâm kiến tánh” là đă đoạn vọng
tưởng, vọng tưởng là khởi tâm động
niệm, mọi người chẳng khởi tâm, chẳng
động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n không
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Đạo
lư là như thế đó! Chúng ta hiểu rơ rồi, bèn thừa
nhận chuyện này là thật, chẳng giả!
Chúng ta muốn
bất biến trong thế giới này có được hay
chăng? Được! Quư vị chẳng
khởi tâm, không động niệm là được, cảnh
giới như vậy đấy! Làm không được là
v́ ư niệm quá vi tế. Quư vị thấy đức Phật
hỏi Di Lặc Bồ Tát, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi ngài
Di Lặc, vẫn chưa phải là nói cho chúng ta nghe! Một
niệm của bọn phàm phu chúng ta dấy lên, tức là
trong tâm có ư niệm, một niệm của chúng ta dấy
lên, trong một niệm này có bao nhiêu tế niệm hợp
thành một niệm? Đức Phật hỏi mấy niệm,
mấy tướng, mấy thức? Di Lặc Bồ Tát trả
lời “trong khoảng khảy
ngón tay”. Chúng ta nói tới một niệm và một cái khảy
ngón tay; chúng ta khảy nhanh th́ ước chừng trong một
giây khảy được bốn lần. Nếu khảy
rất nhanh, chắc là có thể khảy tới năm lần,
trong một giây có thể khảy tới năm lần. Ngài
nói trong một khảy ngón tay có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm. Trăm ngàn là đơn vị; một
trăm ngàn là mười vạn. Ba mươi hai ức nhân
với mười vạn thành ba trăm hai mươi triệu.
Quư vị thấy trong một khảy ngón tay có ba trăm hai
mươi triệu; trong một giây, chúng ta khảy bốn
lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám mươi triệu.
Nếu khảy năm lần sẽ là một ngàn sáu
trăm triệu. Một niệm quá vi tế, làm sao chúng ta có
thể cảm thấy? Di Lặc Bồ Tát nói: “Niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” (形) là vật chất, là tướng cảnh
giới của A Lại Da, “h́nh
giai hữu thức” (h́nh đều có thức), đấy
là Chuyển Tướng của A Lại Da.
Ở chỗ
này, quư vị nhất định phải
hiểu: Trong tự tánh cái ǵ cũng đều có, chẳng
thiếu ǵ! Nó có thể hiện, có thể sanh, có thể
hiện. Niệm có thể biến, thức
có thể biến. Không có thức th́ nó có thể hiện, có
thể sanh, có thể hiện. Thế giới Cực
Lạc có thể sanh, có thể hiện, chẳng có biến,
người bên ấy hoàn toàn dùng chân tâm, chẳng có vọng
tâm, đều là chuyển Thức thành Trí. Do vậy, thế
giới của họ vĩnh hằng không thay đổi.
Vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, vô
lượng đức năng, đều có sẵn trong tự
tánh, chẳng do học được, mà là những thứ
ta có sẵn từ lâu. Có phải là đă đạt đến
rốt ráo hay chưa? Chưa, thật sự hoàn nguyên là cơi Thường
Tịch Quang. Trong cơi Thường Tịch Quang, hiện
tượng vật chất và hiện tượng tinh thần
đều không có, đấy mới gọi là “trở về
tự tánh”. Làm như thế nào mới trở về tự
tánh? Do trong cơi Thật Báo tuy đă đoạn vọng
tưởng, nhưng tập khí vọng tưởng chưa
đoạn; do có tập khí vọng tưởng, nên mới
có cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Tập khí vọng tưởng
cũng đă đoạn, chẳng c̣n nữa, cơi Thật
Báo cũng sẽ không có. Bởi lẽ, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, ngay cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm cũng không phải
là ngoại lệ. Trong kinh, đức Phật chẳng nói cơi
Thật Báo Trang Nghiêm là ngoại lệ, không nói lời này!
Cơi Thật Báo cũng chẳng phải là cảnh giới thật.
Cảnh giới thật sự là Thường Tịch Quang.
Huệ Năng đại sư thốt ra năm câu, năm
câu ấy nói về Thường Tịch Quang. Câu cuối cùng
là “có thể sanh vạn pháp”.
Vạn pháp sanh từ Thường Tịch Quang, Thường
Tịch Quang có thể sanh, có thể hiện. “Phàm cái ǵ có h́nh tướng” đều
thuộc về cơi Thật Báo, cơi Phương Tiện, hay cơi
Phàm Thánh Đồng Cư. Tứ thánh pháp giới là cơi Phương
Tiện, lục đạo luân hồi là cơi Đồng Cư,
chẳng có ǵ là chân thật. Phải hiểu: Hư không
cũng là giả, chẳng thật. Thời gian và không gian
đều là giả. Trong cơi Thường Tịch Quang, không
có thời gian, chẳng có không gian. Chẳng có thời gian, sẽ
chẳng có trước sau. Chẳng có không gian, sẽ không
có khoảng cách; đấy mới là thật sự trở
về tự tánh.
Do vậy,
cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh.
Thưa quư vị, không chỗ nào chẳng hiện thân, không
lúc nào chẳng hiện thân. Hiện thân dài hay ngắn là do nghiệp
cảm của chúng sanh. Chúng sanh vẫn c̣n cảm th́ tướng
ấy vẫn c̣n. Chúng sanh chẳng c̣n cảm, tướng ấy
chẳng c̣n nữa! Cái thân này của chúng ta là thân nghiệp
báo, cũng có tánh thời gian, tức là có thời gian [tồn
tại] dài hay ngắn, nghiệp báo mà! Phật, Bồ Tát chẳng
phải là nghiệp báo; Phật, Bồ Tát là ứng hóa, ứng
theo sự cảm của chúng sanh mà hiện thân tướng.
Không chỉ là hiện thân tướng loài người, mà c̣n
có thể hiện tướng cây cối, hoa, cỏ, có thể
hiện tướng núi, sông, đại địa, tướng
ǵ các Ngài cũng đều có thể hiện. V́ vậy, chúng
ta đọc những câu chuyện xưa hay công án trong Thiền
Tông, có những người tham Thiền thấy cây cối,
hoa, cỏ bèn khai ngộ, thấy mưa rơi trên tàu chuối
bèn hoát nhiên khai ngộ. Đó là ǵ? Nói như chúng ta hiện
nay, đấy chính là Phật gia tŕ. Trong khoảnh khắc ấy,
những thứ vô t́nh ấy là Phật, người ấy
có cảm, Phật bèn ứng hiện, khiến cho người
ấy do cảnh giới đó mà hoát nhiên khai ngộ. Chẳng
có chuyện nào chẳng do Phật lực gia tŕ. Phật lực
gia tŕ là tác dụng của tự tánh, là tự tánh khởi
tác dụng. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, cũng chẳng
hoài nghi tí nào! V́ thế, đối với Phật, dẫu
Phật hiện thân Phật đến gia tŕ, chúng ta
cũng chẳng sanh tâm hoan hỷ, cũng chẳng bị kích
động, bị kích động là hỏng rồi! V́ sao?
A Di Đà Phật là tự tánh Di Đà của quư vị, do tự
tánh của chính quư vị biến hiện, chẳng ở bên
ngoài. Thế giới Cực Lạc là duy tâm Tịnh Độ,
chỗ nào là bên ngoài? Toàn là Tánh Đức, tự tánh lưu
lộ. Quư vị hiểu đạo lư này, sẽ vĩnh viễn
tâm b́nh, khí ḥa, vĩnh viễn là như như bất động.
Huệ Năng đại sư nói rất tuyệt: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng
lay động”. Quư vị vĩnh viễn giữ được
“thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chẳng để cho tâm
dấy lên chút sóng ṃi nào trong cảnh giới; như thế
là đúng.
“Thập phương xưng tán
chi thành ngôn” (là lời khen ngợi chân thành trong mười
phương), câu này dễ hiểu. Lời lẽ chân thành, chắc
chắn chẳng nói dối. “Chúng
sanh bổn cụ chi hóa nghi, Nhất Thừa chi liễu
nghĩa, vạn thiện chi tổng môn” (là hóa nghi sẵn
có của chúng sanh, là liễu nghĩa Nhất Thừa, là môn
tổng quát của muôn điều thiện), những điều
này đều đă nói trong phần trước. “Tịnh Độ quần kinh
bách sổ thập bộ chi cương yếu, nhất Đại
Tạng giáo chi chỉ quy dă” (là cương yếu của
một trăm mấy chục bộ kinh giảng về Tịnh
Độ, là chỗ chỉ về của các giáo pháp trong Đại
Tạng Kinh), ở đây cụ cũng nói đến giáo
pháp trong cả Đại Tạng Kinh, xác thực là như
vậy. “Như thượng
chư hiền sở dĩ thịnh tán thử kinh giả”
(sở dĩ, các vị hiền nhân nồng nhiệt khen ngợi
kinh này như trên): Xưa nay các đại đức tán
thán bộ kinh này, “cái dĩ bổn
kinh tŕ danh Niệm Phật pháp môn” (là v́ pháp môn tŕ danh niệm
Phật trong kinh này), mấy câu tiếp theo quan trọng lắm!
“Viên măn”, quá khó có! Pháp môn nào có
thể giảng đến viên măn rốt ráo? Viên măn là ǵ? Mảy
may khiếm khuyết cũng chẳng có, pháp môn này viên măn. Hoa
Nghiêm là viên măn, Pháp Hoa là viên măn, nhưng quá dài, không như
kinh này. Kinh này phân lượng ít dường ấy, nhưng
viên măn như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, hiếm có lắm! “Trực tiệp” (thẳng thừng,
nhanh chóng), thẳng thừng, thỏa đáng. “Phương tiện”: Pháp môn
này thuận tiện nhất trong hết thảy các pháp môn.
Các pháp môn đều gọi là phương tiện, pháp môn
này là pháp môn thuận tiện nhất trong các phương tiện.
“Cứu cánh” (rốt ráo): Phương
tiện nào giúp quư vị thành Phật, phương tiện ấy
là rốt ráo. Phương tiện nào giúp quư vị thành Bồ
Tát, tuyệt lắm, nhưng chưa rốt ráo. Phương
tiện nào giúp quư vị thành A La Hán, lại càng chẳng phải
là rốt ráo! Do vậy, nay chúng tôi dạy quư vị, giúp quư
vị chuyển ác thành thiện, quư vị biến thành
người tốt, vẫn chưa phải là rốt ráo! Phải
là thành Phật th́ mới là rốt ráo; chưa thành Phật th́
chưa rốt ráo. Giúp quư vị chứng Đẳng Giác Bồ
Tát như Quán Thế Âm vẫn chưa rốt ráo, bởi lẽ,
quư vị chưa thành Phật! Pháp môn này giúp chúng ta rốt
ráo thành Phật. “Nhất siêu trực
nhập, tối cực viên đốn” (hễ vượt
thoát bèn vào thẳng Phật quả, viên đốn tột cùng),
cực viên, cực đốn, “đốn”
là đốn siêu.
Dùng
phương pháp ǵ? “Di Đà Nhất
Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh chi cứu cánh quả giác, tác ngă chúng sanh chi nhân
tâm” (Dùng biển nguyện Nhất
Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng danh
nơi quả giác rốt ráo, làm cái tâm cho lũ chúng sanh chúng
ta trong khi tu nhân), đây là nói rơ ra! Cụ Hoàng nói “nhất siêu trực nhập, tối
cực viên đốn” là nói ǵ vậy? Là sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”. Đơn
giản như thế đó, dễ dàng như thế đó,
sanh ra hiệu quả to dường ấy, ai tin tưởng?
V́ thế gọi là “phương
pháp khó tin”. Trong kinh, đức Phật nói: “Duy Phật dữ Phật, phương
năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu rốt ráo). Đẳng Giác Bồ
Tát đối với pháp môn này giống như nh́n trăng
qua một lớp the. Đây là lời ví von; giống như
chúng ta ngắm mặt trăng, trăng Trung Thu [chẳng hạn],
cách một lớp the, the rất mịn, “the” là một loại
sa rất mịn, the như trong “the, lụa, sa, đoạn”,
cách một lớp the ngắm trăng, c̣n cách một tầng.
Đẳng Giác Bồ Tát đối với pháp môn này giống
như cách một lớp the ngắm trăng; Phật chẳng
có lớp the hay sa này, Đẳng Giác Bồ Tát c̣n bị ngăn
cách bởi một lớp the hay sa. Quá sâu! Đạo lư quá
sâu, nhưng sự t́nh quá đơn giản, do sáu chữ bèn
thành công! Thật vậy ư? Thật đấy! Nay tôi nói
về cư sĩ Tiểu Lỵ ở nơi đây, quư vị
thấy cư sĩ Hoàng Trung Xương làm thí nghiệm coi
sáu chữ [hồng danh] có hiệu quả hay không, ông ta thí
nghiệm. Nghe nói cổ nhân niệm Phật ba năm có thể
văng sanh, ông ta bèn thí nghiệm. Ông ta mới ba mươi mấy
tuổi, là một người rất trẻ, bế quan tại
Thâm Quyến, nhờ cư sĩ Tiểu Lỵ hộ tŕ,
hai năm mười tháng, ông Xương bèn biết trước
lúc mất. Thật đấy, chẳng giả đâu! Pháp
môn dễ dàng như thế đó!
Trong quá
khứ, chúng tôi nghe lăo pháp sư Đàm Hư báo cáo. Tôi không
có duyên phận này, thiếu phước phận, chẳng được
gặp lăo pháp sư. Tôi đến Hương Cảng, Ngài
đă văng sanh hai, ba năm rồi! Nhưng tôi nghe từ băng
thâu âm, Sư giảng khai thị trong Phật Thất, có đồng
tu đem cuốn băng thâu âm đến [cho tôi nghe]. Sư
nói bằng giọng địa phương miền Bắc,
tôi nghe chẳng hiểu lắm, tôi nghe liên tục không ngừng
ba mươi lượt, đại khái có thể nghe hiểu
chín phần. Cuối cùng, tôi rốt cuộc t́m được
một đồng tu ở phương Bắc, nhờ chép
toàn bộ băng thâu âm thành văn tự, in ra một cuốn
sách nhỏ. A! Sư giảng thật hay! Quư vị thấy
Sư kể chuyện người thợ vá nồi là đồng
tham đạo hữu của Sư, là người quen, tại
gia niệm Phật, một câu A Di Đà Phật thôi! Ông thợ
vá nồi không biết chữ, chưa từng đi học,
ngoài bốn mươi tuổi mới xuất gia, điều
ǵ cũng chẳng biết, là bạn chơi đùa hồi
nhỏ của lăo ḥa thượng Đế Nhàn, cùng ở trong
một thôn trang. Ông ta đến t́m pháp sư Đế Nhàn,
cuộc sống của ông ta thật sự khổ sở
quá, thấy pháp sư Đế Nhàn làm pháp sư xuất gia
cũng thoải mái lắm, rất hâm mộ, bèn muốn
theo Ngài xuất gia. Lăo pháp sư Đế Nhàn cũng hết
sức từ bi, gặp người bạn chơi đùa
thuở ấy, bảo ông ta: “Xuất gia phải học
kinh giáo. Ông lớn tuổi như thế, mà cũng chẳng
biết chữ, xem ra học kinh giáo chẳng thành công!” Thuở
ấy trong nhà chùa, chẳng học kinh giáo th́ phải học
kinh sám Phật sự. Kinh sám Phật sự là ngũ
đường công khóa[8], thấy ông ta đầu óc chậm lụt,
ông học cũng chẳng thành công. Có nghĩa là “ông xuất
gia làm sao được?” Nhưng người bạn ấy
cứ nhất định muốn nương cậy Ngài, cuối
cùng không có cách nào, Ngài bèn nói: “Tôi có điều kiện, ông
có thể chấp nhận hay không?” Ông ta nói: “Sư cứ nói
đi, hết thảy tôi đều nghe theo lời Sư”. Với
điều kiện như thế, ông ta nói: “Được”,
Sư bèn cho ông ta xuống tóc. Sau khi xuống tóc, Sư nói: “Ông
không cần thọ giới. Nghi thức thọ giới ông
cũng chẳng hiểu, ông cũng chẳng thọ được”.
Tại vùng quê ở Ninh Ba có một ngôi miếu nát, không ai ở,
cho một ḿnh ông ta ở nơi đó, dạy ông ta một
câu “Nam-mô A Di Đà Phật” sáu chữ. Sư dặn ḍ: “Ông ở nơi đó, niệm một
câu này, niệm mệt bèn nghỉ. Nghỉ ngơi khỏe
khoắn rồi lại niệm tiếp, sau này chắc có lợi
lạc”.
Bí quyết
thành công của người này chẳng có ǵ khác: Thật thà,
vâng lời, thật sự làm, ông ta bèn thành công! Quư vị thấy
người ta niệm Phật ba năm bèn đứng văng
sanh. Tại vùng quê thuở ấy, giao thông chẳng thuận
tiện, một bà cụ già trong thôn phát hiện: “Sư phụ
đă đứng văng sanh”. Quá sức lạ lùng, hiếm có,
trước nay chưa hề thấy ai đứng mất!
C̣n có những vị lăo cư sĩ niệm Phật báo cho mọi
người đến xem; xem xong, sai người sang chùa Quán
Tông báo tin, báo với lăo ḥa thượng Đế Nhàn. Lăo
ḥa thượng nghe tin này, vội vă đến xem, đi về
mất ba ngày. Thấy t́nh h́nh này, lăo ḥa thượng Đế
Nhàn rất hoan hỷ, tán thán: “Ông
xuất gia chẳng uổng, khá lắm, ông mất như thế
đó”. Sư tán thán: “Đại
pháp sư giảng kinh thuyết pháp chẳng bằng ông,
phương trượng, chủ tịch tùng lâm cũng
không bằng ông! Ông đúng là giỏi lắm!” Niệm một
câu sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”
ba năm, thù thắng lắm! Đó là chuyện trước
mắt, không xa mấy! Trong phần trước, tôi đă kể
với mọi người chuyện một bà cụ tại
làng Tướng Quân ở Đài Nam, cũng là niệm Phật
ba năm rồi đứng mất. Lời tán thán này chẳng
hư giả mảy may nào, vấn đề là chúng ta phải
thật sự làm th́ mới được.
Nhưng
trong thời đại hiện tại, quư vị phải
nhớ: Tịnh Tông là Đại Thừa, chẳng phải
là Tiểu Thừa, người Đại Thừa phải
giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn, nhất là trong
thời đại hiện tại. Chính quư vị thành tựu,
nhưng không có duyên phận giáo hóa chúng sanh, bèn có thể thị
hiện giống như vậy. Nếu có duyên phận giáo
hóa chúng sanh, quư vị c̣n trụ thêm mấy năm nữa. Trụ
thêm mấy năm nữa, chẳng trở ngại. Do vậy,
nếu muốn đến chỗ hết thảy chư Phật
Như Lai, nhất là muốn đến chỗ A Di Đà Phật,
nguyện vọng của A Di Đà Phật là ǵ? Phổ
độ hết thảy chúng sanh khổ nạn trong mười
pháp giới. Chúng ta hiểu ư A Di Đà Phật, chúng ta
cũng khiến cho A Di Đà Phật hoan hỷ, mang thêm nhiều
người đi. Quư vị mang thêm càng nhiều càng hay, đây
là chuyện tốt. V́ thế, chớ nên làm kẻ tự giải
thoát cho riêng ḿnh như trong Tiểu Thừa, tức là vừa
thành tựu đă ra đi ngay lập tức, chẳng đúng!
V́ sao người thợ vá nồi đi ngay lập tức?
Người thợ vá nồi ra đi là có lư, ông ta thị hiện,
đó là Tác Chứng Chuyển. Cư sĩ Hoàng Trung Xương
cũng là thị hiện, chứng minh cho người niệm
Phật chúng ta. Tôi giảng kinh tại Hương Cảng,
chúng tôi ở đây rất gần, ông ta mỗi ngày nghe CD của
tôi. Tôi ở đây là Khuyến Chuyển, Thị Chuyển,
ông ta Tác Chứng Chuyển bên ấy, chứng minh những điều
kinh nói chẳng giả, mà là chuyện thật, quyết
định [thành tựu] trong một đời! Hơn nữa,
trong ba năm ngắn ngủi, quư vị có thể vượt
thoát lục đạo luân hồi, có thể vượt thoát
mười pháp giới. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn,
pháp môn nào có thể làm được? Chỉ có pháp môn này!
Chúng ta phải hiểu rơ chuyện này, “Viên măn trực tiệp, phương tiện cứu
cánh” là thật, chẳng giả chút nào! Do vậy, pháp môn
này đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa,
thích đáng nhất, đáng tin cậy nhất, lại c̣n
nhanh chóng nhất. Điểm mấu chốt là quư vị có
thể buông những thứ vặt vănh trong thế gian xuống
hay không? Những kẻ chẳng thể văng sanh vốn là v́
lư do này: Quư vị vẫn c̣n tham luyến thế gian này, vẫn
muốn tiếp tục luân hồi trong lục đạo,
vậy là hết cách! A Di Đà Phật chẳng thể lôi
quư vị đi theo, v́ quư vị chẳng bỏ thế gian
này được! A Di Đà Phật gật đầu, bỏ
đi, đợi lần sau vậy! Khi
nào quư vị buông hết xuống, A Di Đà Phật sẽ
đến, chúng ta chẳng thể không biết điều
này! Thời gian đă hết rồi mà tôi không thấy. Hôm
nay chúng ta học tới đây, cảm ơn mọi người.
Tập 04
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin ngồi xuống.
Xin xem trang hai trong quyển thứ nhất, phần Tiền
Ngôn (lời nói đầu).
Chúng ta đă
học đến chỗ cụ Niệm Tổ giới thiệu
sự tán thán của cổ đại đức đối
với bộ kinh này. Tiếp đó, cụ nói: “Cái dĩ bổn kinh tŕ danh niệm
Phật pháp môn” (là v́ pháp môn tŕ danh niệm Phật được
nói trong kinh này), chúng ta đọc từ chỗ này, “viên măn trực tiệp,
phương tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập,
tối cực viên đốn” (viên măn, thẳng thừng,
nhanh chóng, phương tiện rốt ráo, hễ vượt
thoát bèn vào thẳng cảnh giới Phật, viên đốn
tột bậc). Trong lần trước, chúng ta đă đọc
đến câu này. Đây là nói v́ sao pháp môn này được
lắm người tán thán như thế, tôi nghĩ nó có quan
hệ mật thiết với thập phương chư
Phật. Có thể nói pháp môn này trọn khắp pháp giới
hư không giới, không có vị Phật nào chẳng tán thán
A Di Đà Phật. Trong kinh Di Đà, chúng ta đọc thấy
sáu phương Phật ca ngợi; trong bản dịch kinh A
Di Đà của Huyền Trang đại sư, ghi là mười
phương Phật tán thán, nói rất cặn kẽ. Trong kinh
Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, đức Phật đều
giới thiệu với chúng ta như vậy. Trong khi tu nhân,
Phật Di Đà phát nguyện quá vĩ đại, chẳng
thể nghĩ bàn! Phật Phật đạo đồng,
chư Phật chứng đắc trí huệ và đức
tướng chẳng sai biệt, nhưng do lúc tu nhân, phát
nguyện và phát tâm thật sự có sai biệt. Phật pháp
chẳng tách ĺa nhân quả, đừng nói là pháp thế gian,
Phật pháp cũng chẳng tách rời!
Lúc chúng tôi
mới học Phật, thầy khuyến khích chúng tôi; thuở
ấy, chúng tôi chưa hiểu sâu như thế. Thầy chỉ
nói phải phát tâm, phải rộng kết thiện duyên, trong
tương lai, pháp duyên hoằng pháp lợi sanh của anh sẽ
thù thắng. Nói với chúng tôi chân tướng sự thật
hiện tiền này, chúng tôi nghe xong cảm thấy rất
vui vẻ. Kết duyên như thế nào? Thuở ấy,
chúng tôi sống khá chật vật, học tṛ cũng chẳng
có bao nhiêu tiền bạc để kết duyên với mọi
người. Thầy dạy: Anh cầm một đồng,
mua một bao đậu phộng, đứng ở cửa
chính, người ta đến nghe kinh, tặng mỗi người
một hạt. Đó là kết duyên. Mua kẹo, tặng mỗi
người một chút, dùng tâm cung kính, dùng vẻ mặt
tươi cười để đón người ta, tiếp
đăi đại chúng tới nghe kinh. Pháp duyên giảng kinh
của thầy Lư rất tốt, đại khái là thính chúng
cả ba, bốn trăm người; thầy dạy tôi môn
phương pháp này.Về sau, chúng tôi có sức, không chỉ
dùng phương pháp này để kết duyên, mà dùng cách kết
pháp duyên trọng yếu hơn. Chúng tôi bắt đầu
in tặng những tấm thẻ, sau đó là kinh sách. Do khoa
học kỹ thuật tiến bộ, chúng tôi tặng
băng thâu âm, băng thâu h́nh, hiện thời bèn tặng CD.
Chúng ta có truyền h́nh vệ tinh, có mạng Internet, đều
nhằm kết pháp duyên.
Nhưng sau này, chúng tôi thâm
nhập kinh tạng, hiểu rơ pháp môn này, trong lúc tu nhân, A Di
Đà Phật đă phát nguyện quá lớn, Phật Phật
đạo đồng. Giữa chư Phật có thể nói,
[tức là đúng như] kinh đă nói như thế này: “Thập phương tam thế
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất
trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên” (Mười phương
ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một
trí huệ, lực, vô úy cũng thế). Phật có tâm đố
kỵ hay chăng? Không có! Chẳng những không có tâm [đố
kỵ], mà Phật chẳng có ư niệm! Chúng ta thường
nói là “chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng
phân biệt, đừng chấp trước”, Phật làm
được điều này. Nếu Ngài làm không được,
c̣n khởi tâm động niệm, sẽ là Bồ Tát, chưa
phải là Phật. C̣n có phân biệt, chấp trước,
sẽ là phàm phu, chưa phải là thánh nhân. Phật đâu có
những đố kỵ, chướng ngại này! Tuyệt
đối chẳng thể có! Do Phật Di Đà phát đại
nguyện này, chư Phật hoan hỷ, đối với tất
cả hết thảy chúng sanh, hết thảy chư Phật
Như Lai đều giới thiệu Tây Phương Cực
Lạc thế giới, kể cả Tỳ Lô Giá Na Phật
trong hội Hoa Nghiêm cũng không ra ngoài lệ này. V́ thế,
Văn Thù, Phổ Hiền dẫn bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới
Hoa Tạng sang thế giới Cực Lạc quy y A Di Đà
Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng tức giận. Không
chỉ chẳng tức giận, mà c̣n hoan hỷ. V́ sao? Tu
hành thành Phật trong thế giới Hoa Tạng, kinh giảng
điều này rất rơ ràng, phải mất bao lâu? Ba A-tăng-kỳ
kiếp mới đoạn được tập khí vô minh
từ vô thỉ trong A Lại Da Thức. Vô minh đă đoạn
rồi, nhưng tập khí vô minh chưa đoạn, trong thế
giới Hoa Tạng phải tốn thời gian dài như thế
[để đoạn]. Đến thế giới Cực
Lạc th́ sao? Đến thế giới Cực Lạc bèn
làm được, trong một ngày là xong! Phương tiện
thù thắng như thế, mười phương thế
giới chẳng có, chỉ riêng A Di Đà Phật là có. Được
rồi! Chỗ của Ngài có [sự thù thắng này], có thể
giải quyết th́ mười phương chư Phật
đều đưa học tṛ của ḿnh, kể cả hàng
Bồ Tát, sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đây là biểu thị pháp cho chúng ta biết: A Di Đà Phật
dạy dỗ là chư Phật Như Lai dạy dỗ.
Chúng ta phải hiểu rơ đạo lư này, phải có tâm
lượng này, đây là ǵ? Tùy hỷ công đức! Kinh Hoa
Nghiêm nói “hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức”, đây là đạt tới
rốt ráo viên măn. Chư Phật Như Lai, quư vị hăy ngẫm
xem, chẳng phải là thanh tịnh tự tại ư? Ta
mong hết thảy chúng sanh thành Phật, đều tới
thế giới Cực Lạc, đều thanh tịnh tự
tại! A Di Đà Phật có mệt mỏi hay chăng? Chẳng
có! Làm mà không làm, không làm mà làm! Giúp hết thảy chúng sanh thành
Chánh Đẳng Giác, thành Vô Thượng Bồ Đề, trong
tâm A Di Đà Phật cũng chẳng có dấu vết. Đây
gọi là “tùy duyên diệu dụng”,
thật sự mầu nhiệm, mầu nhiệm đến
tột bậc! Đây là biểu thị pháp cho chúng ta thấy,
nói thật ra, chư Phật là như thế, Phật Di
Đà là như thế, mà mỗi người chúng ta cũng
đều như thế. Chỉ là mê mất tự tánh, chẳng
biết Thể, Tướng, Dụng của tự tánh rộng
lớn như thế, không biết trong tự tánh vốn sẵn
có, chẳng phải do bên ngoài mà có, chẳng liên quan ǵ với
bên ngoài. Do vậy, pháp môn tŕ danh niệm Phật là tự
tánh.
“Viên măn trực tiệp”, “viên măn” là chẳng khiếm
khuyết, “trực tiệp”
là không có chướng ngại; “phương
tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập”. V́ vậy,
pháp môn này là Đốn Giáo. Buông xuống là đốn xả.
Chỉ cần quư vị có thể bỏ, buông xuống
được, quư vị sẽ chứng đắc Phật
quả viên măn rốt ráo ngay trong hiện tiền. Giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy dưới cội
Bồ Đề, buông xuống, chẳng khởi tâm, không
động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, bèn minh tâm kiến tánh. [Cảnh giới của]
Huệ Năng đại sư lúc canh ba nửa đêm trong
phương trượng thất của Ngũ Tổ
cũng là cảnh giới này, buông khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước xuống, bèn thành Phật.
Cảnh giới của Huệ Năng đại sư và cảnh
giới của Thích Ca Mâu Ni Phật dưới cội Bồ
Đề giống nhau, là tương đồng, đó “tối cực viên đốn”.
Nay chúng ta không có năng lực này, thật đấy! V́
sao không có năng lực này? Tập khí phiền năo quá nặng,
đức Phật giảng rơ ràng chân tướng sự thật,
chúng ta đă hiểu rơ, nhưng không thể bỏ xuống
được. Ở chỗ này, đức Phật có nói: “Phương tiện cứu cánh”,
câu này tuyệt diệu! Phương tiện là ǵ? Sáu chữ
Nam-mô A Di Đà Phật. Quư vị nắm vững sáu chữ
này, chấp trước nó; do vậy, Tịnh Tông gọi tŕ
danh niệm Phật là chấp tŕ danh hiệu, “chấp” (執) là nắm giữ. Quư vị chẳng giữ
lấy những thứ khác, buông xuống toàn bộ những
thứ chấp trước khác, thay bằng sự chấp
trước này, đây gọi là phương tiện rốt
ráo. Nam-mô A Di Đà Phật là ǵ? Thưa quư vị, là tự
tánh, là Tánh Đức của tự tánh. Hai chữ “Nam-mô” là tiếng Phạn, có
nghĩa là quy y, hay quy mạng. Quy (歸) là quay về, Y (依) là dựa vào, cái ǵ ta cũng đều
buông xuống, nay ta hoàn toàn nương cậy A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật là tự tánh, vô lượng quang, vô lượng
thọ; lại nói rơ cùng quư vị, trong Hoa Nghiêm, đức
Phật nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Vô lượng quang là trí huệ trong tự
tánh, vô lượng thọ là đức tướng của
tự tánh. Do vậy, niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật là
niệm trí huệ và đức tướng của tự
tánh, tuyệt lắm! Tiếp theo đó là đoạn: “Dĩ Di Đà Nhất Thừa
nguyện hải, lục tự hồng danh chi cứu cánh
quả giác, tác ngă chúng sanh chi nhân tâm” (Dùng biển nguyện
Nhất Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng
danh nơi quả giác rốt ráo để làm cái tâm trong khi
tu nhân của chúng ta). V́ thế, pháp môn này gọi là “quả pháp” (pháp môn tu nơi
quả vị), chẳng phải là “nhân pháp” (pháp môn chú trọng tu nhân). Tám vạn bốn
ngàn pháp môn là tu nhân ḥng chứng quả, pháp môn này vừa bắt
đầu đă là quả, chẳng phải là pháp môn tu nhân.
Tiếp đó,
cụ Niệm Tổ nói: “Dĩ
quả vi nhân, nhân quả đồng thời. Tùng quả khởi
tu, tức tu, tức quả. Tâm tác, tâm thị, bất khả
tư nghị” (Lấy quả làm nhân, nhân quả đồng
thời. Từ quả khởi tu, tu chính là quả, quả
chính là tu, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chẳng thể
nghĩ bàn). Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tức là nói
pháp môn này khác với tám vạn bốn ngàn pháp môn ở chỗ
nào, nói rơ ra. Quư vị gặp pháp môn này há dễ dàng ư?
Nhiều kẻ Tiểu Thừa hay Bồ Tát gặp được,
nhưng chẳng tin, nên gọi là “pháp khó tin”. Nhị Thừa, Bồ Tát không tin, mà lũ
phàm phu chúng ta tin tưởng, kỳ quái thay! So ra, chúng ta cao
minh hơn hàng Nhị Thừa và Bồ Tát. Do duyên cớ nào?
Thiện căn và phước đức khác nhau. Trong một
đời này, gặp được pháp môn này, có thể
tin, có thể hiểu, lại c̣n chịu thật sự hành,
đây chẳng phải là chuyện trong một đời này,
mà là đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, từ
vô lượng kiếp đến nay, quư vị đă gieo
thiện căn, trong A Lại Da có thiện căn. Quư vị
chẳng có thiện căn, chẳng thể vừa gặp
bèn tin tưởng! Nếu thiện căn, phước
đức và nhân duyên đều đầy đủ, có đủ
những điều kiện ấy, chắc chắn văng
sanh trong một đời này. Vẫn chưa đủ th́
sao? Chưa đủ, c̣n kém một chút; kém một chút bèn có
cách: Trong một đời này, nếu quư vị thật sự
tin tưởng, thật sự có thể lư giải, hăy
dũng mănh, tinh tấn nhằm bù đắp cho thiện
căn và phước đức chưa đủ. Trong đời
này, chúng ta có thể làm được, khi thật sự muốn
bù đắp sẽ rất nhanh. Nếu như giải
đăi, biếng nhác, tán loạn, sẽ chẳng có cách nào hết!
Trong một đời này, chẳng có cách nào bù đắp
th́ sao? Vẫn luân hồi trong lục đạo. Lần sau
gặp gỡ, sẽ tiếp tục tu. Đời đời
kiếp kiếp trong quá khứ, không biết
chúng ta cũng đă làm chuyện như vậy bao nhiêu lần!
Đây là sự thật. Từ vô lượng kiếp trong quá
khứ đến nay, không biết chúng ta đă làm bao nhiêu lần;
đời này lại gặp gỡ là do thiện
căn và phước đức trong đời quá khứ hiện
hành. Lần này hiểu rơ rồi, quyết định hạ
quyết tâm “ta phải thành tựu trong một đời này”,
phải hạ quyết tâm này! Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng, quư vị thật sự có quyết tâm này,
lẽ nào chẳng thành tựu? Có quyết tâm như vậy,
nhất định quư vị phải giác ngộ. Quư vị
buông thế duyên trong thế gian này xuống, phải thật
sự hiểu rơ: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Ư nghĩa
chân thật của câu này là ǵ? Đừng nói là một đời
này trong nhân gian, mà ngay cả lục đạo lẫn mười
pháp giới cũng chẳng thật, đều là giả,
đều chẳng đáng bận ḷng, hăy nên buông xuống,
chẳng lưu luyến mảy may, quư vị sẽ chẳng
c̣n có chướng ngại nữa
Nếu có
mảy may nào chẳng buông xuống được, c̣n vướng
mắc, đối với phàm phu mà nói, nặng nhất là
t́nh chấp, đây là mê hoặc. Buông được những
thứ này, những thứ khác sẽ buông dễ dàng! Nhất
định phải biết: Những thứ như tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần là
họa hại, t́nh chấp chẳng phải là chuyện tốt.
Sau khi quư vị thấy thấu suốt, t́nh chấp là nghiệt
duyên (孽緣). Nó chướng ngại quư vị chứng
quả, chướng ngại quư vị khai ngộ, chướng
ngại quư vị niệm Phật văng sanh. Trong thế gian này,
chẳng lẽ cha mẹ, thân thuộc chúng ta đều từ
bỏ? Điều này dường như đă trái phạm
luân thường! Thật vậy! Làm thế nào để
có thể làm trọn vẹn đôi bề? Quư vị có thể
chuyển biến t́nh duyên thành pháp duyên, chuyển biến người
nhà, quyến thuộc thành pháp lữ, thành đồng tham
đạo hữu, cùng sanh về cơi Cực Lạc, tốt
hơn nhiều! Trong một đời này, dẫu t́nh duyên
sâu đậm đến đâu đi nữa, chết rồi
là phải chia tay, c̣n có thể ở chung với nhau nữa
hay chăng? Chẳng thể nào! Nhưng sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thật
sự vĩnh viễn ở cùng một chỗ. Bất luận
quư vị ứng hóa trong đường nào, đều có
thể thấy rơ ràng, họ cần giúp đỡ, quư vị
bèn sanh trong cùng một đường với họ, giúp họ
một tay. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật
trong thế gian này, quư vị thấy các vị đệ tử
gồm một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị,
đều là đồng tham đạo hữu trong đời
quá khứ, c̣n có hàng tại gia: Quốc vương, đại
thần, cư sĩ hộ pháp, toàn là pháp quyến trong quá
khứ. Do v́ giúp đỡ chúng sanh, nên giáo hóa chúng sanh mới
được thuận lợi như vậy, phải hiểu
đạo lư này, chúng ta sẽ chuyển biến thành công.
“Thị tâm thị Phật, thị
tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật): Đức
Thế Tôn đă nói câu này trong Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh. Đối với hiện thời, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta gặp nhiều kẻ chẳng học Phật
hiểu lầm Phật, có thể dùng điều này để
giải thích cho kẻ ấy. Phật là ǵ? Phật là chân tâm
của quư vị. Ma là ǵ? Ma là vọng tâm. Trong tám tướng
thành đạo của Tiểu Thừa có hàng ma, Đại
Thừa không có. Đại Thừa biết Phật và ma là một, chẳng hai. Giác ngộ, ma bèn thành
Phật; mê rồi, Phật biến thành ma, chuyện là như
vậy đó, thảy đều là chính ḿnh. Nói cách
khác, mê là ma, giác là Phật. Tâm th́ sao? Tâm không có giác hay mê, giác
hay mê là vọng tâm, chân tâm chẳng có giác hay mê. V́ vậy, đă
giác ngộ, mà quư vị c̣n ư niệm giác ngộ, tức là quư
vị vẫn chưa giác ngộ, vẫn rớt trong hai ba
(tam tâm, nhị ư). Hai ba là bất giác; [nhận thấy] mê và
giác đối lập, làm ǵ đi nữa th́ vẫn là hai thứ!
Câu cuối cùng nói rất hay: “Bất
khả tư nghị” (Chẳng thể nghĩ bàn). Chuyện
này quư vị chẳng thể nghĩ nổi. Hễ vừa
nghĩ liền trật, vừa nghĩ tới
liền mê. Quư vị chẳng thể nói được, hễ
nói th́ cũng mê rồi! Thốt không nên lời! Nói không nên lời,
cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật nói suốt bốn mươi chín
năm, tuy nói suốt bốn mươi chín năm, [nhưng
đúng như] đức Phật đă nói rất hay: “Nói
mà chẳng nói, chẳng nói mà nói”. Chúng ta nghe lời này càng nghe
càng hồ đồ, lời Ngài nói là thật. Ngài nói
lời giả, chúng ta nghe hiểu rơ lắm, chẳng có vấn
đề ǵ. Ngài nói lời thật, càng nghe càng hồ đồ!
Chúng ta phải biết dụng tâm để hiểu. Do vậy,
đức Phật mới bảo chúng ta: Quư vị phải
biết nghe. “Biết nghe” là như Mă Minh Bồ Tát đă dạy
trong Khởi Tín Luận: “Ly ngôn
thuyết tướng”, [nghĩa là] quư vị nghe, nhưng
đừng chấp trước tướng nói năng.
Nghe nhưng chẳng chấp trước, chẳng phân biệt
sẽ là đúng. Nói cách khác, thật sự có thể chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, ai nghe như vậy? Phật
nghe như vậy. Có khởi tâm, động niệm, nhưng
chẳng có phân biệt, chấp trước, ai nghe như
thế? Bồ Tát nghe như thế. Có khởi tâm, động
niệm, vẫn c̣n phân biệt, nhưng không chấp trước,
đó là cái nghe của A La Hán. Nếu khởi tâm động
niệm, phân biệt, chấp trước, thảy đều
trọn đủ, đó là cái nghe của phàm phu. Quư vị thấy
đó: Đều là nghe, nhưng khác nhau, cảnh giới lănh
hội khác nhau.
Quư vị
thấy danh từ Khởi Tín trong bộ Khởi Tín Luận
của Mă Minh Bồ Tát, đó chính là nhập môn. Đại
Thừa nhập môn liền cho quư vị biết: Thật
ra, đối với khởi tâm động niệm, nói thật
ra, chúng ta chẳng có cách nào, nó quá vi tế. Di Lặc Bồ
Tát bảo: “Trong một khảy
ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, làm
sao chúng ta có thể phát hiện được? Chúng ta làm
sao có thể đoạn sạch niệm? Chẳng thể nào!
Do chúng ta chẳng phải là bậc thượng thượng
thừa, nhưng chúng ta có thể học theo bậc thượng
thừa. Bậc thượng thừa là Bồ Tát, Bồ
Tát có khởi tâm động niệm, quyết định chẳng
có phân biệt, chấp trước, quư vị sẽ nghe được
nghĩa chân thật của Như Lai. Có phân biệt, chấp
trước, quư vị nghe xong, nói đă hiểu, th́ đó là
ư nghĩa của chính quư vị, chẳng phải [ư nghĩa]
do đức Phật nói. Lại nói rơ hơn một chút, đấy
chẳng phải là kiến giải do Tánh Đức của
quư vị, mà là kiến giải trong A Lại Da Thức. V́
sao? V́ quư vị có phân biệt, chấp trước, vẫn
là A Lại Da làm chủ tể! A Lại Da là vọng tâm. Tri
kiến trong vọng tâm, chẳng phải là chân tâm, c̣n cách
chân tâm một tầng; do điều này mà biết tu hành Phật
pháp là tu ǵ? Chính là hai chữ “buông xuống”, buông xuống là
được!
Thật
sự có thể đạt đến chẳng nghĩ bàn, điều
ǵ cũng chẳng nghĩ tới, điều ǵ cũng chẳng
nói tới, người ta hỏi, quư vị bèn trả lời.
Chẳng hỏi, cái ǵ cũng không biết; c̣n hễ hỏi
tới, điều ǵ cũng biết. Không ai hỏi quư vị,
tâm quư vị hoàn toàn ở trong Định. Đó là Căn Bản
Trí, kinh Bát Nhă bảo là “Bát Nhă
vô tri”. Lúc không có duyên, Bát Nhă vô tri, ở trong đại
định, đó chính là cảnh giới Đại Niết
Bàn thanh tịnh, tịch diệt. Người khác có cảm,
quư vị lập tức có ứng; khi ứng th́ “không ǵ chẳng
biết”, đó là ǵ? Căn Bản Trí khởi tác dụng,
không ǵ chẳng biết. Giống như trong kinh đă kể
chuyện ngài Xá Lợi Phất: Ngài Xá Lợi Phất trí huệ
bậc nhất, không có vấn đề nào bắt bí Ngài được!
Bao nhiêu người thỉnh giáo Xá Lợi Phất, Ngài đều
đối đáp trôi chảy. Có người tới hỏi
Thích Ca Mâu Ni Phật, v́ sao Xá Lợi Phất có đại
trí huệ như vậy? Trí huệ của Ngài do đâu mà có?
Phật giơ cái trống lên. Gơ trống, đức Phật
lấy cái trống làm tỷ dụ, Ngài nói: “Ông có thấy cái
trống này hay chăng?” “Dạ thấy”. “Bên trong cái trống
có ǵ hay không?” “Không có, trống trơn!” Là hai tấm da căng
ra; gơ nó, gơ mạnh, kêu to, gơ nhẹ, kêu nhỏ, chẳng gơ,
chẳng kêu! Đức Phật nói trí huệ trong tâm Xá Lợi
Phất giống như cái trống. Nếu quư vị chẳng
gơ, cái ǵ cũng đều không có. Nếu quư vị gơ, Ngài sẽ
lập tức có phản ứng. Đó là ǵ? Tự tánh Bát
Nhă, chẳng phải do bên ngoài mà có, bên ngoài không có. Học
những thứ từ bên ngoài quá khổ sở. Cảnh giới
bên ngoài là duyên, sẽ cảm. Giống như chúng ta đọc
kinh, mở kinh văn ra, đối trước văn tự,
văn tự là cảm, chúng ta phải ứng, do tự tánh
ứng, nên sanh trí huệ. Nếu chúng ta dùng phân biệt hay
chấp trước để ứng, nói theo cách người
hiện thời là “nghiên cứu”, nghiên cứu theo kiểu nào,
nghiên cứu tới, nghiên cứu lui cũng đều là
phiền năo, đều là tri kiến sai lầm, chẳng phải
là chánh tri chánh kiến. Đức Phật nói “chánh tri chánh
kiến”, chớ nên nghiên cứu, nghiên cứu là suy nghĩ,
bàn bạc. Chớ nên nghiên cứu th́ gọi là ǵ? Danh từ
Phật học là “tham cứu”,
không gọi là nghiên cứu. Tham cứu và nghiên cứu khác
nhau ở chỗ nào? Trong nghiên cứu có phân biệt, có chấp
trước; trong tham cứu không có phân biệt, chấp
trước; khác nhau ở chỗ này! Tham cứu là trí huệ,
nói thẳng thừng th́ trong ấy chắc chắn không có
hiện tượng cong vạy, chúng ta học Đại
Thừa chẳng thể không biết điều này!
Tiếp đó,
dẫn sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải có một đoạn
như thế này: “Nhất thanh
A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ
trược ác thế sở đắc chi A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ thử quả
giác toàn thể thọ dữ trược ác chúng sanh, năi
chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ
Phật năng cứu tận, phi cửu giới tự lực
sở năng tín giải dă” (Một tiếng A Di Đà
Phật, chính là pháp để Thích Ca Bổn Sư đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác
ngũ trược. Nay đem toàn thể quả giác này trao
cho chúng sanh trược ác, đấy chính là cảnh giới
do chư Phật đă hành, chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu tột cùng, chẳng phải là chín
giới cậy vào tự lực mà ḥng tin hiểu được).
Đây là nói rơ, thuyết minh đơn giản pháp môn này khó
tin, khó hiểu. V́ sao khó tin, khó hiểu? Thích Ca Mâu Ni Phật
thành Phật như thế nào? Ngẫu Ích đại sư đă
vạch trần bí mật: Niệm A Di Đà Phật bèn thành
Phật. Lời này ở đâu vậy? Nói ngay trong kinh Di
Đà. Chúng ta niệm kinh Di Đà mỗi ngày mà chẳng nhận
ra. Niệm mấy chục năm vẫn chẳng phát hiện.
Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật,
thật đấy, chẳng giả tí nào! Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đă dạy chúng ta một nguyên
lư, nguyên tắc: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. Nghĩ đến Phật
bèn thành Phật, chúng ta hằng ngày tưởng A Di Đà Phật,
quư vị quyết định thành Phật; quư vị mỗi
ngày tưởng Quán Âm Bồ Tát, sẽ thành Quán Âm Bồ Tát.
Quán Âm Bồ chẳng phải là một người, A Di
Đà Phật cũng chẳng phải là một người,
nhất định phải biết điều này. Quán Âm, Di
Đà vô lượng vô biên thân, quư vị niệm các Ngài, sẽ
ḥa cùng một Thể với các Ngài, Tự, Tha bất nhị!
Trong [Tam Thời] Hệ Niệm Pháp Sự, thiền sư Trung
Phong đă nói: “Tự tánh Di Đà,
duy tâm Tịnh Độ”. Niệm danh hiệu này là đức
hiệu của tự tánh, Quán Âm Bồ Tát cũng là đức
hiệu của tự tánh, một đằng đuợc
kiến lập từ quả, một đằng kiến lập
từ nhân. Danh hiệu Phật là nói theo Quả, danh hiệu
Bồ Tát là nói theo nhân, Thể đều là tự tánh, chẳng
rời khỏi tự tánh.
Câu này rất
quan trọng, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật như thế
nào? Điều này được chính đức Phật dạy
rơ trong kinh. Đây là pháp để Ngài đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
cả câu này là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán th́ có thể dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. A là Vô, chữ A trong A Di Đà Phật phải dịch
là Vô; Nậu Đa La là Thượng, [A Nậu Đa La là] Vô
Thượng; Tam là Chánh, dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Chánh; Miệu là Đẳng, tức Đẳng trong b́nh
đẳng. Phía sau lại có một chữ Tam là Chánh, Bồ
Đề là Giác. Do vậy, dịch toàn bộ sang nghĩa tiếng
Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể dịch,
chứ không phải là chẳng thể dịch. V́ sao không dịch?
Do tôn trọng, nên không dịch. Trong pháp Đại Thừa,
quư vị tu học nhằm hướng đến mục
tiêu ǵ? Chính là câu này! Nói cách khác, Đại Thừa nhằm
cầu chính điều này, chứ không có ǵ khác. Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác là tự tánh giác, chẳng phải
điều ǵ khác, cũng là nói “trở về tự tánh”. A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề sẵn có
trong tự tánh, “đắc” là “trở về”. Nói theo mặt
Tướng, Tịnh Độ Tông nói bốn cơi, Thường
Tịch Quang Tịnh Độ trong bốn cơi chính là điều
này, nó tương ứng với Thường Tịch Quang.
Trong Thường Tịch Quang, không có hiện tượng vật
chất, mà cũng chẳng có hiện tượng tinh thần,
nó tồn tại, chẳng có sanh diệt. Khi Huệ Năng
đại sư khai ngộ, đă nói năm câu về Thường
Tịch Quang: “Vốn tự thanh
tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự trọn
đủ, vốn chẳng lay động, có thể sanh ra vạn
pháp”. Sanh ra vạn pháp như thế nào? Có một niệm
bất giác, vạn pháp liền xuất hiện. Một niệm
bất giác gọi là “vô thỉ
vô minh”, quư vị phải nhớ, đức Phật giảng
rất rơ ràng, rất minh bạch. “Vô thỉ”, “thỉ”
(始) là bắt đầu, [vô thỉ là] không
có bắt đầu. V́ sao có một niệm bất giác? Chẳng
có lư do, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có sự ǵ. Nếu
quư vị muốn truy cứu một niệm bất giác, v́
sao có một niệm bất giác, quư vị đọa lạc
ngay lập tức. Quư vị thấy quư vị có phân biệt,
có chấp trước, liền từ chỗ cao nhất rớt
xuống lục đạo luân hồi. Do vậy, đức
Phật dùng danh từ này hay lắm, vô thỉ! Quư vị chớ
nên truy cứu, đừng nên truy cứu nó bắt đầu
khi nào, chớ nên truy cứu, đúng là vô thủy.
Măi cho
đến khi đọc phần đối thoại giữa
đức Thế Tôn và Di Lặc Bồ Tát, chúng tôi mới hơi
hiểu rơ chân tướng sự thật này. V́ sao nó vô thỉ?
Nó quá ngắn ngủi! Quư vị hăy nghĩ xem, nay chúng ta tính
trong một giây khảy ngón tay bốn lần, một niệm
là thời gian bao lâu? Một ngàn hai trăm tám mươi triệu
phần của một giây, quư vị có thể nói nó bắt
đầu từ đâu hay chăng? Chúng ta nói “bắt đầu”
th́ chẳng biết đă trải qua bao nhiêu niệm, bởi
lẽ, niệm tồn tại trong một thời gian quá ngắn
ngủi, tạm bợ. Kinh thường nói là một “sát-na”
là thời gian cực ngắn, nhưng ngắn đến mức
nào, sẽ nói mơ hồ, chẳng rơ ràng. Di Lặc Bồ
Tát giảng rơ ràng chuyện này, chẳng mơ hồ tí nào: “Một cái khảy ngón tay có ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Chúng ta khảy
ngón tay lẹ làng, có thể là tôi khảy nhanh hơn, được
năm lần, nói chung khảy chừng bốn lần. Nếu
khảy năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu,
tức là năm nhân với ba trăm hai mươi triệu,
quư vị thấy tốc độ lẹ như thế, làm
sao có thể nói nó có sanh diệt? V́ thế, chẳng thể
nói nó sanh diệt, tính không kịp! Do vậy, kinh Phật bảo
là “sanh diệt đồng thời”.
Chữ “đồng thời”
có thể giảng theo cách này. Bất sanh bất diệt chỉ
có thể nói theo cách này. Quư vị phải thật sự hiểu
ư nghĩa của cách nói này. Nếu thật sự chẳng sanh
diệt, nói “bất sanh bất diệt” chẳng phải là
nói nhảm, nói dư thừa hay sao? Xác thực có sanh diệt,
nhưng sanh diệt với tốc độ quá nhanh, quư vị
không có cách nào quan sát, mắt chẳng thể thấy được,
ư niệm nghĩ không ra; cho nên chỉ nói sự sanh diệt
ấy là bất sanh bất diệt. Trong bất sanh bất
diệt có sanh diệt, sanh diệt chính là bất sanh diệt,
bất sanh diệt chính là sanh diệt, quư vị mới hiểu
chân tướng sự thật rơ ràng, minh bạch. Chúng ta hiểu
rơ ràng, minh bạch th́ nói thật ra, vẫn là phân biệt, chấp
trước; chẳng dùng đến phân biệt, chấp
trước, vẫn không hiểu rơ lắm, chẳng hiểu
rơ rệt! V́ sao? Chưa biết dùng chân tâm, mà chính là dùng vọng
tâm. Thật sự chưa hiểu rơ lắm th́ quư vị
đừng cố nữa, hăy cứ thật thà niệm A Di
Đà Phật, về thế giới Cực Lạc sẽ chẳng
hiểu rơ ràng ư? Đây là biện pháp tốt đẹp,
cần ǵ phải chuốc lấy phiền phức? Cung kính
niệm kinh Đại Thừa một biến, đấy là
công đức; nhưng quư vị khởi tâm động niệm
suy nghĩ “kinh có ư nghĩa ǵ”, công đức bị phá sạch!
Công đức chẳng c̣n nữa, biến thành phước
đức. Phước đức khác công đức. V́
sao chúng ta vẫn phải niệm? Niệm nhằm tu Định,
dùng phương pháp đọc kinh để nhiếp tâm, buông
tất cả vọng tưởng, chấp trước xuống.
Đọc kinh cũng chẳng dấy vọng tưởng,
cũng không khởi chấp trước, đọc kinh là
tu Định. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, đây
cũng là một pháp môn, vấn đề là chính ḿnh có biết
sử dụng hay không.
Mấy câu
tiếp theo có thể nói là rất trọng yếu đối
với Tịnh Tông! “Kim dĩ
thử quả giác toàn thể thọ dữ trược ác
chúng sanh” (nay đem toàn thể quả
giác này trao cho chúng sanh trược ác). “Trược” là ngũ trược ác thế. Lúc
tôi mới học Phật, vào sáu mươi năm
trước, thấy kinh nói đến ngũ trược
ác thế, chúng tôi thường cảm thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật nói hơi quá lố! Thế giới này dù trược
ác, vẫn chưa trược ác đến mức ấy.
Nhưng nay nh́n lại chữ này, Ngài nói đúng quá, chẳng
quá lố tí nào! Sở dĩ thế giới hiện tại
có tai nạn, tai nạn v́ sao mà có? Do dính dáng đến
trược ác. “Trược”
(濁) là hỗn trược (dơ bẩn, đục
ngầu), “ác” (惡) là Thập Ác. Quư vị thấy chúng sanh
trong thế gian này khởi tâm động niệm
tương ứng với Thập Ác, chẳng có Thập Thiện.
Tương ứng với Thập Ác, đúng là đại
tai nạn sẽ xảy ra! Nay chúng ta suy nghĩ: Thật sự
có tai nạn hay không? Có rất nhiều người
hỏi tôi, tôi nói “hăy nên biết là thật đấy”, v́
sao? Chúng ta nh́n từ nhân quả, thiện nhân cảm thiện
quả, ác nhân cảm thọ ác quả. Trước hết,
hăy nh́n từ tướng hảo của chính ḿnh, tướng
chuyển theo tâm. Tâm địa thiện lương, tướng
mạo sẽ thiện lương; tâm địa thiện
lương, thân sẽ khỏe mạnh. Thầy lang Bành Hâm[9] nói rất hay: “Bất
thiện, quư vị sẽ nhiễm bệnh”. Trong bản
báo cáo, ông ta đă nói như thế. Bất nhân, “nhân” (仁) là thương yêu con người.
Kẻ bất nhân dễ bị bệnh gan. Kẻ bất
nghĩa, dễ mắc bệnh phổi, nó có cảm ứng
với phổi. Vô lễ, dễ mắc bệnh tim. Vô trí là
hồ đồ, thiếu trí huệ, dễ mắc bệnh
thận. Bất tín, thiếu tín
nhiệm, thường mong lừa gạt kẻ khác, dễ
mắc bệnh tỳ vị (lá lách và bao tử). Phải làm
như thế nào để thân thể khỏe mạnh? Phải
thực hiện Ngũ Thường, tức là nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, quư vị đều làm được.
Ngũ Thường chính là Ngũ Giới trong Phật pháp. Chẳng
sát sanh là nhân, không trộm cắp là nghĩa, chẳng tà dâm
là lễ, chẳng uống rượu là trí, chẳng nói dối
là tín; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Quư vị có thể giữ
vẹn Ngũ Giới, nội tạng sẽ chẳng sanh bệnh.
Chỗ nào bị bệnh, nhất định quư vị thiếu
đạo đức, Ngũ Thường là năm đức,
[do thiếu đức nào] nên quư vị mới bị bệnh
ấy. Bị bệnh mà quư vị hiểu đạo lư này,
ta khéo tu đức, khiến cho ngũ tạng lục phủ[10] khôi phục b́nh thường, chẳng c̣n
bệnh nữa! Trung Y dùng thuốc men để chữa bệnh,
hiệu quả chỉ được ba phần, sửa đổi
tâm tư thái độ chiếm mất bảy phần! Nếu
biết thay đổi tâm tư, thái độ, lại dùng
một chút thuốc men để phụ trợ, sẽ trị
bệnh hết sức hữu hiệu.
Do Phật
đă chứng đắc viên măn quả giác, tức là đă
trở về tự tánh viên măn, đem điều này giáo
hóa chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh. Đấy là “chư Phật sở hành cảnh
giới”. Ở đây, câu này bảo rơ với chúng ta: Hết
thảy chư Phật đều là niệm A Di Đà Phật
mà thành Phật, không có ngoại lệ! Quư vị tin được
không? Tôi đọc kinh Hoa Nghiêm, trong lần tham học thứ
nhất của phần năm mươi ba lần tham học,
tỳ-kheo Cát Tường Vân dạy Thiện Tài đồng
tử hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật, tôi đă
giảng rồi, nhưng suy nghĩ vẫn chưa thấu
triệt, v́ sao? Lúc ấy, chưa đạt tới cảnh
giới như hiện thời, nhưng tôi nói hai
mươi mốt pháp môn Niệm Phật bao quát tất cả
các pháp môn do thập phương tam thế hết thảy chư
Phật, Bồ Tát đă nói, hễ triển khai th́ môn nào cũng
đều là pháp môn Niệm Phật. Cổ đại
đức nói: Đúng thế, mỗi pháp môn đều là
pháp môn Niệm Phật; nhưng pháp môn niệm A Di Đà Phật
là pháp môn nói thẳng thừng, ổn thỏa, thích đáng, nhanh
chóng, dễ dàng, thành công cao, là quả giác rốt ráo viên măn,
“duy Phật dữ Phật năng
cứu tận” (chỉ có Phật với Phật mới
có thể thấu hiểu tột cùng), “cứu tận” là hiểu rơ triệt để. Tánh,
Tướng, Sự, Lư, nhân quả, tới khi thành Phật quư
vị mới hiểu rơ. Bồ Tát chưa được,
đối với chuyện này, Bồ Tát có thể liễu
giải, nhưng trong kinh, đức Phật có nêu một tỷ
dụ, tức là “ngắm
trăng qua một lớp the”.
“The” là ǵ? The là lượt là, rất mịn, the, sa, nhiễu,
đoạn, rất mịn, trong suốt, giống như sa,
nhưng trong suốt, c̣n mịn hơn sa nữa! Quư vị
có thể nh́n thấy bên ngoài qua lớp the, ngắm trăng
qua sự ngăn cách này. Bồ Tát đối với pháp này
có thể lư giải [nhưng vẫn chưa hoàn toàn thấy
tường tận]; cho nên nói: “Phi
cửu giới tự lực” (chẳng phải do chính sức
lực của chúng sanh trong chín pháp giới). Chín pháp giới
đặc biệt dùng sức của chính ḿnh, nếu được
Phật gia tŕ, quư vị sẽ có thể tin, có thể hiểu.
Chẳng có Phật lực gia tŕ, dựa vào sức của chính
ḿnh, chắc chắn quư vị chẳng có cách nào cả! Tại
đây cũng là hé lộ một tin tức: Nay chúng ta có thể
tin, có thể hiểu pháp môn này, lại c̣n muốn thật
sự hành; quư vị phải nghĩ chính ḿnh đă được
Phật lực gia tŕ. Không có Phật lực gia tŕ, sẽ làm
không được! Nay chúng ta gặp pháp môn này là có duyên với
Phật, là có cảm. Chúng ta muốn học, Phật sẽ
có ứng, Phật sẽ gia tŕ chúng ta, giúp chúng ta có tín tâm, giúp
chúng ta có thể lư giải, giúp chúng ta tu hành chứng quả.
Tới lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn,
đó chính là Chứng. Hoàn thành “tín,
giải, hành, chứng” trong một đời.
“Hựu viết” (lại nói), đây
vẫn là điều được viết trong Di Đà Yếu
Giải, “cử thử Thể”
(toàn bộ cái Thể này), Thể là ǵ? Thể là pháp giới
Thể, là tự tánh. Trong sách Hoàn Nguyên Quán có câu: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”
chính là nói về điều này. Câu nói này của quốc sư
Hiền Thủ và câu “tất cả
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai” trong kinh [Hoa Nghiêm] là cùng một câu nói, có cùng một
ư nghĩa. “Tự tánh, thanh tịnh,
viên minh”, nói thành ba chuyện, nhưng ba chuyện này là Pháp
Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát. Minh là trí huệ, thanh tịnh là
đức hạnh, viên măn là tướng hảo. Tự
tánh thanh tịnh viên minh thể. Toàn bộ Pháp Thân, Bát Nhă, Giải
Thoát được bao gồm trong Tánh Đức. “Tác Di Đà thân độ” (làm
thân và cơi nước của Di Đà), thân Di Đà được
gọi là Pháp Thân, cơi nước Phật Di Đà ngự được
gọi là Tịnh Độ. Pháp giới
Thể là tự tánh, thân và cơi nước đều do Tánh Đức
tự nhiên lưu lộ. Kinh Phật dạy: “Pháp nhĩ như thị” (pháp vốn là như thế).
Đó là “cử thử Thể
tác Di Đà danh hiệu” (dùng toàn bộ cái Thể này để
làm danh hiệu Di Đà). Danh hiệu của cái Thể ấy
là A Di Đà Phật. “Thị cố,
Di Đà danh hiệu tức chúng sanh Bổn Giác lư tánh” (v́
thế, danh hiệu Di Đà là lư tánh Bổn Giác của chúng
sanh). Bổn Giác là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự
tánh. Lư là lư tánh, tác dụng của Lư là Sự, tác dụng của
Tánh là Tướng. Tánh, Tướng, Sự, Lư sẵn có
trong tự tánh của chúng sanh, chẳng phải do bên ngoài mà
có! Đây là nói rơ mối quan hệ giữa danh hiệu A Di
Đà Phật và hết thảy chúng sanh: A Di Đà Phật chẳng
phải là ai khác, mà thật sự là chính ḿnh, chớ nên hiểu
lầm! Chính ḿnh vốn là Phật! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật nói [chuyện này] bao nhiêu lần. Chính ḿnh vốn là
Phật, nay niệm A Di Đà Phật tức là muốn
thành Phật. Quư vị suy nghĩ coi: Có thể nào chẳng
thành Phật ư? Chính ḿnh vốn là Phật, nay lại muốn
làm Phật, niệm Phật chính là muốn làm Phật, chúng
ta chẳng c̣n hoài nghi nữa. Đây là hai đoạn trích dẫn
từ sách Di Đà Yếu Giải.
Tiếp
theo đó, Hoàng lăo cư sĩ nói: “Khả kiến thử kinh thật thị đại
bi từ phụ Như Lai Thế Tôn xứng tánh cực
đàm” (Có thể thấy kinh này thật là lời bàn luận
xứng tánh đến tột bậc của đức đại
bi từ phụ Như Lai Thế Tôn). Kinh này quả thật
là như vậy, đại từ bi phụ là A Di Đà Phật,
tức vị Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Như Lai Thế Tôn là [nêu đại lược
hai thứ trong] mười thứ đức hiệu của
Phật. Như Lai có nghĩa là ǵ? Kinh Kim Cang giảng rất
khéo: “Như Lai giả, chư
pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của
các pháp). Câu này giảng khéo lắm! Hết thảy các pháp
đều do tự tánh biến, hết thảy các Pháp
Tướng giống như Pháp Tánh. Hoặc là chúng ta nói như
thế này: Hết thảy Pháp Tướng đều là tự
tánh, quư vị càng dễ hiểu hơn! Tự tánh của chúng
ta ở chỗ nào? Bất luận pháp nào cũng đều
là tự tánh. Do vậy, đối với người đại
triệt đại ngộ trong Tông Môn, tổ sư bèn khảo
nghiệm, trắc nghiệm kẻ ấy: [Tự tánh] ở
đâu? Tùy tiện lấy một pháp đều là [tự tánh],
pháp nào cũng đều Như, chẳng có một pháp nào chẳng
Như. Phàm và thánh sai khác ở chỗ mê hay ngộ. Người
ngộ rồi sẽ được gọi là Phật hay Bồ
Tát; kẻ mê bất giác, chẳng biết hết thảy các
pháp đều là tự tánh, cho nên gọi kẻ ấy là
phàm phu. Trong pháp môn Bất Nhị, phàm và thánh chẳng hai, thật
đấy. Nói thật với quư vị: “Sanh Phật bất nhị”, [nghĩa là] chúng sanh và
Phật là một, không hai, đều là nói thật, nhưng
quư vị chẳng thừa nhận. Quư vị chẳng dám nhận,
đó là ǵ? Quư vị mê rồi! Khi nào quư vị giác ngộ,
tự tánh vốn ở ngay đây, vấn đề ǵ cũng
đều được giải quyết! V́ thế, kinh
này là đức Thế Tôn xứng tánh cực đàm. Cực
là tột cùng, nay chúng ta gọi là “đỉnh cao nhất”
không có ǵ cao hơn được, viên măn đến rốt
ráo, không c̣n ǵ viên măn hơn. Bộ kinh này đúng là như vậy,
chẳng giả. “Chư Phật
bí tạng”, chữ “bí” (祕) này chẳng phải là bí mật, quư vị
phải hiểu: Trong Phật pháp không có bí mật. Có bí mật,
sẽ chẳng thể nói với người khác, trong Phật
pháp không có [điều ấy]. “Bí”
trong Phật pháp là nói đến sự sâu xa, kín nhiệm, Sự
lẫn Lư đều quá sâu, chẳng dễ liễu giải,
ẩn kín. Đây là nói thập phương tam thế hết
thảy chư Phật Như Lai trong không ngằn mé thế
giới, trong mười pháp giới của các thế giới
chư Phật, giáo hóa chúng sanh trong lục đạo, giảng
kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Bốn chữ “chư Phật bí tạng” có ư
nghĩa này.
Lại nói
là “ḥa bàn thác xuất” (和盤托出: giăi bày trọn hết), chẳng giữ lại! Giống
như chúng ta đăi khách, dọn thức ăn đầy mâm,
toàn bộ dọn ra hết. Cái mâm (bàn tử: 盤子) ấy chính là bộ kinh này, trong bộ
kinh này có nội dung ǵ? Bí tạng của thập
phương tam thế hết thảy chư Phật đều
ở trong đây, tuyệt diệu thay! V́ thế, cổ
đại đức nói: Mọi người tán thán hai bộ
kinh lớn là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa khôn cùng, đại kinh Nhất
Thừa mà! Cổ đại đức bảo [hai kinh ấy]
đều nhằm dẫn đường cho kinh Vô Lượng
Thọ. Nếu tôi chấp nhận cách nói này, tôi tin tưởng
Tịnh Độ. Quư vị thấy thầy Lư khuyên tôi như
vậy, nhưng tôi chẳng tiếp nhận. Tôi tiếp nhận
Tịnh Độ là do giảng kinh Hoa Nghiêm, phải biết
cũng là giảng được bảy, tám năm rồi,
có một hôm, bỗng nhiên dấy lên ư niệm: Nghĩ coi Văn
Thù, Phổ Hiền tu pháp môn ǵ? Thiện Tài đồng tử
tu pháp môn ǵ? Giảng kinh chưa đến phần sau, lật
phần sau ra. Giở phần sau ra [mới thấy] khi kinh
này sắp giảng xong, h́nh như là trong quyển ba
mươi chín, quyển bốn mươi là chấm dứt
kinh. Trong quyển thứ ba mươi chín, Văn Thù Bồ
Tát, trong sách Chú Giải này, cụ Hoàng cũng trích dẫn,
trong phần sau sẽ nói đến, Văn Thù Bồ Tát
phát nguyện văng sanh Tịnh Độ, Phổ Hiền Bồ
Tát cũng phát nguyện văng sanh Tịnh Độ. Lại
xem kỹ, năm mươi ba lần tham học của Thiện
Tài đồng tử chứng tỏ, [giống như] người
Hoa nói “tiên nhập vi chủ”
(điều ǵ tiếp xúc đầu tiên sẽ là chánh yếu),
Thiện Tài đồng tử tham phỏng vị [thiện
hữu] thứ nhất là tỳ-kheo Cát Tường Vân, Ngài
niệm A Di Đà Phật, tu Ban Châu tam-muội, chuyên tu niệm
Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ngài giảng cho Thiện
Tài hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật. Tôi vừa
mới nói với quư vị, hai mươi mốt môn này triển
khai thành vô lượng vô biên pháp môn, chẳng có một pháp
môn nào chẳng phải là pháp môn Niệm Phật, tương
ứng với “chư Phật
bí tạng, ḥa bàn thác xuất”.
“Thả thử niệm Phật
pháp môn, diệc tức chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi” (Hơn
nữa, pháp môn Niệm Phật này cũng chính là hóa nghi sẵn
có của chúng sanh). Trong phần trước, chúng tôi đă từng
nói: “Hóa” (化) là giáo hóa, “nghi” (儀) là nghi thức. Đây là phương thức
giáo hóa, phương thức này do đâu mà có? Chúng sanh có sẵn,
cho nên nó thuộc về Tánh Đức. Chúng ta mê mất, Phật,
Bồ Tát lấy ra [dùng điều này để giáo hóa
chúng sanh], nó là cái bản thân chúng ta vốn sẵn có. Nghi thức
này giống như cách chúng ta học tập trong các trường
học hiện thời, Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học, nghiên cứu sinh, chúng ta tu học cũng giống như
vậy. Thời gian mê trong lục đạo quá lâu, mê quá
sâu, chẳng thể quay lại ngay được, phải
làm từ từ! Trước hết là buông xuống phiền
năo nghiêm trọng nhất, buông xuống chấp trước
nghiêm trọng nhất, chẳng hề chấp trước
hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian,
thưa quư vị, lục đạo sẽ chẳng c̣n nữa,
chúng đều là giả. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
nói: “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, do quư vị có chấp
trước, nên bèn hiện tướng này, đấy là mộng
cảnh. Khi tỉnh khỏi chấp trước, tỉnh rồi,
lục đạo không c̣n nữa, quư vị sẽ t́m không ra
lục đạo! Tỉnh lại, sẽ là cảnh giới
nào? Là tứ thánh pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật, cảnh giới này xuất hiện. Cảnh giới
này vẫn là một mộng cảnh; v́ thế, lục
đạo là “mộng trong mộng”.
Tứ thánh do đâu có? Tứ thánh do phân biệt và vọng
tưởng mà có. Có vọng tưởng, có phân biệt, sẽ
có tứ thánh pháp giới. Trong tứ thánh pháp giới, Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát là phân biệt, sau khi đoạn sạch
[phân biệt] bèn thành Phật. Phật [trong tứ thánh pháp
giới] chưa đoạn vọng tưởng, có khởi
tâm động niệm, tức là Vô Minh phiền năo chưa đoạn.
Nếu đối với pháp thế gian và xuất thế gian
chẳng khởi tâm, không động niệm, thật sự
tỉnh, mười pháp giới sẽ không có! Do vậy, thưa
với quư vị: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, là thật, chẳng
giả. Đây là sau khi tỉnh lại, bèn thoát khỏi mười
pháp giới, cảnh giới ấy sẽ gọi là Nhất
Chân pháp giới. “Chân” là ǵ? “Chân” là vĩnh hằng không thay
đổi! Quư vị thấy trong thế gian này, động
vật có sanh, lăo, bệnh, tử, thực vật có sanh, trụ,
dị, diệt, khoáng vật như núi, sông, đại
địa, kể cả tinh cầu, có thành,
trụ, hoại, không, biến đổi trong từng
sát-na, vô thường. Người trong cơi Thật Báo Trang
Nghiêm của chư Phật Như Lai đều chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, cho nên thế giới ấy không biến
hóa. Quư vị sanh vào thế giới ấy là hóa sanh, chẳng
sanh bằng bào thai, đều là thân kim cang bất hoại,
thân tướng sẽ không già yếu, sẽ không sanh bệnh,
trên thân sạch sẽ, không cần phải tắm táp, rửa
ráy, không cần thiết, hóa sanh mà! Cây cối, hoa cỏ
vĩnh viễn như trong mùa Xuân, chẳng biến đổi,
không có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông biến hóa. Do vậy,
gọi là Nhất Chân.
Tu ǵ trong
cảnh giới ấy? Phải đoạn trừ tập
khí vô thỉ vô minh. Đoạn tập khí bằng cách nào?
Không có cách nào hết! Không để ư tới nữa, nó sẽ
đoạn, tự nhiên đoạn. Cổ nhân dùng tỷ dụ
b́nh rượu để nói về tập khí, phương
pháp này rất hay! B́nh rượu chứa rượu, đổ
sạch sành sanh rượu, chùi sạch bong, quả thật
là một giọt cũng chẳng c̣n, nhưng vẫn ngửi
thấy mùi, đó là “tập khí”, không có cách nào diệt trừ!
Không thể làm ǵ khác hơn là mở toang nắp b́nh, bỏ
ở đó, để một năm hay nửa năm, ngửi
thử sẽ không thấy mùi nữa! Do vậy, sự tu
hành của người ấy trong cơi ấy được
gọi là “vô công dụng đạo”, căn bản là không màng
tới, mặc cho nó biến mất. Nhưng ở trong ấy,
Pháp Thân Bồ Tát thần thông quảng đại, chúng sanh
trong mười phương thế giới có cảm, Ngài
lập tức có ứng, sẽ làm những chuyện ấy.
Có cảm bèn có ứng, cảm ứng hết sức rất
nhanh. Đấy là như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói, một
niệm vừa động, bèn trọn khắp pháp giới,
bất luận quư vị động niệm nào! V́ thế,
sau khi đọc bộ luận này, chính ḿnh phải hiểu:
Chúng ta khởi tâm động niệm, dấy lên thiện
niệm, những người tâm địa thanh tịnh trọn
khắp pháp giới hư không giới đều thu
được, đều nhận được tin tức
ấy. Giống như chúng ta đang ở trên màn h́nh TV, toàn
bộ hoạt động của quư vị họ thấy
hết. Quư vị có thể gạt gẫm được người
nào hay chăng? Quư vị khởi lên ác niệm, họ cũng
biết hết, chẳng thể giấu diếm mảy may
nào! Đừng tưởng người ta không biết, biết
toàn bộ! Quư vị chỉ có thể giấu diếm chúng
sanh mê hoặc, điên đảo, họ không biết; chứ
không gạt được người giác ngộ! Đây
là chân tướng sự thật. Một niệm trọn
khắp pháp giới, một niệm sanh ra vô tận, đó
tức là nói: Nó biến huyễn vô cùng, chứa đựng
cả Không lẫn Có. Trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Tâm bao thái hư, lượng
châu sa giới” (tâm bao trùm hư không, lượng trọn
khắp các cơi nhiều như cát), thật đấy! Một
niệm là như vậy, một hạt vi trần cũng
là như vậy, bất luận là hiện tượng vật
chất hay tinh thần, toàn bộ đều là như vậy.
Hơn nữa, vật chất và tinh thần là một, không
hai. Nếu quư vị đă học ba tế tướng của
A Lại Da Thức, quư vị sẽ biết. Trong Đại
Thừa Phật giáo dùng ba tế tướng của A Lại
Da Thức để giải thích duyên khởi của vũ
trụ, vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật do đâu
mà có? Sanh mạng do đâu mà có? Ta từ đâu đến?
Giải thích hết sức rơ ràng. V́ sao có thể hiểu rơ
như thế? Đó là cảnh giới do chính những
người đó giác ngộ, chứng đắc, chẳng
phải do nghiên cứu, quan sát, suy đoán như trong khoa học,
chẳng phải, mà do họ đích thân thấy. Họ trở
về tự tánh, thật sự hiểu rơ toàn bộ Tánh, Tướng,
Sự, Lư, nhân quả trong tự tánh.
V́ sao địa
cầu ngày nay biến thành t́nh trạng như vậy? V́ sao
nhiệt độ địa cầu tăng lên? V́ sao băng
ở Nam Cực và Bắc Cực tan chảy? V́ sao các nơi
bị động đất nhiều như thế? Kinh Phật
giảng rơ ràng! Mà cũng có [biện pháp] để giải
quyết vấn đề này ra sao, chỉ cần quư vị
tin tưởng, địa cầu sẽ có thể lập
tức khôi phục b́nh thường. Không chỉ hữu dụng
đối với địa cầu, ngay cả các tinh cầu,
tinh hệ trong vũ trụ cũng sẽ vận hành theo đúng
quỹ đạo b́nh thường, chẳng đến nỗi
rối loạn, chúng ta đều có thể làm được,
chứ các khoa học gia chẳng có cách nào. V́ sao có thể
làm được? V́ hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng,
Thái Dương Hệ sanh từ tâm tưởng, Ngân Hà Hệ
sanh từ tâm tưởng, chỉ cần quư vị chẳng
có quan niệm sai lầm, chúng bèn b́nh thường. Nếu quư
vị muốn thay đổi chúng, chúng sẽ biến thành
dị thường. Các nhà khoa học làm chuyện dị
thường, muốn nhân định thắng thiên, muốn
sửa đổi hoàn cảnh thiên nhiên, vấn đề sẽ
nẩy sanh. V́ sao có những hiện tượng này? V́ chúng
từ tâm tưởng của quư vị sanh ra. Hiện thời,
quư vị có tâm tưởng chẳng b́nh thường, chúng
liền biến thành bất thường, chuyện là như
vậy đó! V́ sao trước kia b́nh thường như
vậy? Không ai nghĩ đến chuyện thay đổi
hoàn cảnh tự nhiên, không ai có ư niệm này, cho nên địa
cầu rất b́nh thường. Hiện tại, các khoa học
gia mỗi ngày động niệm, phá hoại môi trường
sống và hoàn cảnh tự nhiên, phiền phức dấy
lên. Sau khi vấn đề nẩy sanh, bèn bó tay, không có cách
nào, đáng thương quá!
Sách Hoàn Nguyên Quán đúng là tuyệt
diệu! Thầy Hồ Tiểu Lâm xem từ đầu đến
cuối ba lần, gọi điện thoại cho tôi biết,
hoan hỷ khôn sánh. Khi xem, thầy quên cả ăn cơm, uống
nước, đi vệ sinh, hễ xem là xem mười mấy
tiếng. Ông ta gọi điện thoại, hỏi tôi: “Có
phải là con đang mê hay không? Có vấn đề ǵ hay không?”
Tôi bảo ông ta: “Ông chẳng có vấn đề ǵ, b́nh
thường! Pháp hỷ sung măn đấy mà! Quên ăn cơm,
lại chẳng cảm thấy đói, Thiền duyệt làm
thức ăn. Tuy ông chưa chứng đắc cảnh giới
này, ông đă có chút mon men hưởng thụ”. Lần này [ông
ta] sang đây, vốn định báo cáo chuyện này, sau khi đă
tới đây, vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn
phải thâm nhập một tầng nữa rồi mới báo
cáo, tôi nói “được!” Bài luận văn này của quốc
sư Hiền Thủ chẳng dài, nhưng thật là phi phàm.
Toàn bộ những lư luận và phương pháp tu hành trong
kinh Hoa Nghiêm đều được viết ra trong bài văn
ngắn ngủi này! Chúng ta học Hoa Nghiêm mười
năm, dùng hơn bốn ngàn giờ, mà phần sau [của
kinh Hoa Nghiêm chưa được giảng] c̣n rất dài,
do vậy, đem bài luận văn này của quốc sư
Hiền Thủ ghép vào học tập giữa chừng, học
tập hai lượt. Sau đấy, học tiếp kinh Hoa
Nghiêm sẽ có ư vị khác hẳn, cảnh giới khác hẳn.
Nay chúng ta coi lại kinh Vô Lượng Thọ, sẽ lại
khác hẳn! Lẽ nào ông ta chẳng vui mừng! Pháp hỷ
sung măn, thường sanh tâm vui vẻ. Do vậy, đây là hóa
nghi sẵn có trong tự tánh của chúng sanh.
“Thử nhất cú Phật hiệu,
chánh như Yếu Giải sở thị, kư thị chúng sanh
Bổn Giác Lư tánh, cố tri thử giới nhĩ năng niệm
chi tâm tức thị Như Lai quả giác” (Một câu Phật
hiệu này, đúng như sách Yếu Giải đă chỉ
ra, đă là Lư tánh Bổn Giác của chúng sanh, cho nên biết
cái tâm niệm Phật nhỏ nhoi này chính là quả giác của
Như Lai). Chúng ta phải chú tâm thấu hiểu: Câu Phật
hiệu ấy là sáu chữ hồng danh “Nam-mô A Di Đà Phật” như trong sách Yếu Giải
của Ngẫu Ích đại sư đă giảng, nó chính là
Lư tánh Bổn Giác của chúng sanh, Lư tánh là tự tánh. Nhằm
dạy học thuận tiện, đức Phật lập
ra sáu chữ để đại diện cho muôn sự muôn
vật trong vũ trụ. Tánh Tướng: Tánh có thể
sanh, có thể hiện; Tướng là cái được sanh,
cái được hiện. Đây là tầng cao nhất, tức
duyên khởi của vũ trụ. Tầng thứ hai là Lư, Sự;
Lư Sự là A Lại Da Thức, Lư là chủ thể có thể
biến, Sự là cái được biến (sở biến),
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là cái được
biến. Trong “cái có thể biến” (năng biến) có nhân
và quả; trong sở biến cũng có nhân và quả. Quư vị
thấy: Dùng sáu chữ “Tánh,
Tướng, Lư, Sự, nhân, quả” bao quát trọn hết
toàn bộ. Ở đây, quan trọng nhất là phải biết:
Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, nhưng chẳng
biến. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai là cảnh giới này. Do vậy, nó được gọi
là Nhất Chân pháp giới. Đến tầng Lư Sự, Năng
Biến biến thành A Lại Da Thức, hiện tướng
vô lượng vô biên ở trong ấy, chẳng phải là bất
biến, mà là biến hóa khôn lường, biến đổi
trong từng sát-na. Khi chúng ta học những điều này,
cũng không có cách nào để diễn tả, nói không được!
Do vậy, tôi đă nghĩ tới thuở nhỏ, chơi ống
kính vạn hoa, đơn giản như vậy đó. Quư vị
thấy kết cấu của ống kính vạn hoa là ba mảnh
gương, ở giữa bỏ mấy mảnh giấy màu
khác nhau. Quư vị xoay nó, sẽ thấy những thứ biến
hóa bên trong. Quư vị xoay cách nào cũng chẳng t́m được
một mô thức (pattern) giống nhau. Có cùng một đạo
lư như vậy, A Lại Da Thức khởi tác dụng, biến
thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới giống
như ống kính vạn hoa, kính vạn hoa chuyển động
không ngừng. Niệm này khởi lên, niệm kia diệt mất,
tiền niệm diệt, hậu niệm khởi. V́ thế,
chúng ta thấy tướng được hiện là hiện
tượng ǵ? Là một thứ gần như là tướng
liên tục, chẳng phải là hai tướng giống
nhau, chẳng có! Về căn bản, chẳng giống hệt
nhau mà là tương tự.
Giống
như chúng ta coi phim, dùng dụng cụ sau đây: Cuộn
phim, tức là phim điện ảnh. Quư vị thấy phim
bỏ vào máy chiếu phim, một giây chiếu được
hai mươi bốn tấm, ống kính đóng hay mở, tức
là đối với tấm phim dùng để rọi, hễ
ống kính mở, tấm phim ấy bèn được chiếu
lên màn bạc, [ống kính] đóng lại, đổi sang tấm
kế tiếp. Tốc độ quá nhanh, trong một giây là
hai mươi bốn tấm, chúng ta thấy dường như
h́nh ảnh cử động trên màn bạc; thật ra, chúng
bất động, đâu có động! Từng tấm khác
nhau. Do vậy, quư vị biết, sau khi lật ngửa con bài,
[mới biết] thế giới này là tướng liên tục
tương tự. Quư vị thấy: Trong điện ảnh,
hai mươi bốn tấm phim [trong một giây] đă gạt
được mắt ta, chúng ta ngỡ là thật. Đức
Phật nói hiện thời [sự tướng biến hóa
trong thế gian] theo tốc độ nào? Trong một giây là
một ngàn hai trăm tám mươi triệu tấm, tốc
độ chuyển động như vậy, làm sao chúng ta
biết nổi? Hai mươi bốn tấm đă gạt chúng
ta được rồi! Nay tôi cho quư vị biết, trong một
giây có bao nhiêu tấm? Một ngàn hai trăm tám mươi
triệu! Nói với chúng ta chân tướng sự thật này.
V́ thế, có những thứ ấy tồn tại hay không?
Không có, vạn pháp đều là Không.
Chúng ta
thường nói nhân quả chẳng không, “nhân quả chẳng
không” là so với ǵ để nói? So với tương tục
mà nói, nói đối với tướng tương tự
liên tục, trong ấy có nhân quả, bảo quư vị phải
dè chừng, cẩn thận. Lên cao hơn nữa th́ sao? Lên
cao hơn nữa th́ nhân quả cũng không. Tới Thường
Tịch Quang, nhân quả chẳng có, hoàn toàn trở về tự
tánh, nhân quả do đâu mà c̣n nữa? Trong Thường Tịch
Quang, ngay cả hiện tượng vật chất lẫn
hiện tượng tinh thần đều không có, nhưng
có kiến văn giác tri, bởi lẽ, kiến văn giác
tri là Tánh Đức. Biến thành A Lại Da Thức là khi nhất
niệm vọng động, bèn biến thành A Lại Da Thức,
kiến văn giác tri trong A Lại Da biến thành Thọ, Tưởng,
Hành, Thức; khi mê sẽ là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng dùng nước
làm thí nghiệm. Nước có thể thấy, nghe, đó là
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Cội nguồn của
Thọ, Tưởng, Hành, Thức là ǵ? Cội nguồn là kiến
văn giác tri. Kiến văn giác tri trong tự tánh là trí huệ
và đức năng sẵn có trong tự tánh. Đức Phật
nói rơ ràng như thế, nói minh bạch như thế, các nhà
khoa học chẳng nói đến.
Chánh báo
như tóc, lông của chúng ta, y báo như vi trần, đều
là tướng được hiện. Chúng ta thường
nói “sanh diệt trong từng sát-na”, thật sự quư vị
không có cách nào hiểu được khái niệm này, hiểu
lời Di Lặc Bồ Tát nói: “Trong
một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn
niệm”, từ đây chúng ta mới có khái niệm. Bất
luận là đầu lông hay vi trần, đều thuộc
về vật chất, trong hiện tượng vật chất
có kiến văn giác tri. Nay chúng ta đă mê, nói cách khác, có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, trong một đầu lông đều
có, hết thảy các sợi lông, hết thảy các vi trần
thảy đều có. Trong Phật pháp nói vi trần, các nhà khoa
học hiện thời dùng danh từ “nguyên tử, điện tử, hạt căn bản,
khoa-khắc (quark)”, đều
gọi là “vi trần”, là hiện
tượng vật chất, có tinh thần hay không? Có! Có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Trong hạt cơ bản có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, nó biến hóa, nghe theo ai chỉ
huy? Ai đang biến hóa nó? Ư niệm. Chúng ta khởi tâm
động niệm, nó bèn thuận theo ư niệm của chúng
ta mà biến hóa. Ư niệm của chúng ta
là thiện, sẽ chẳng có thứ ǵ bất thiện; ư
niệm của chúng ta là bất thiện, sẽ chẳng
có ǵ là thiện.
Nếu
chúng ta đều là thiện niệm, cho nên đức Phật
mong chúng ta, mong các đệ tử Phật nêu gương tốt
cho hết thảy chúng sanh, thực hiện từ nơi đâu?
Thực hiện từ Lục Ḥa Kính. V́ thế, đoàn thể
trong Phật môn được gọi là Tăng đoàn. Quư
vị thấy khi chúng tôi thuyết Tam Quy Y: “Quy y Tăng, chúng trung
tôn”, “Chúng” là đoàn thể.
Trong Phật pháp, Chúng là nói từ bốn người trở
lên, ở cùng một chỗ chung sống,
tu hành chung với nhau, một đoàn thể như vậy tu
Lục Ḥa Kính. “Kiến ḥa
đồng giải”: Cách nh́n, cách nghĩ của ta và cách
nh́n của mọi người như nhau, gọi là kiến
ḥa đồng giải. “Giới
ḥa đồng tu”, mọi
người ở cùng một chỗ tuân thủ quy củ.
Chẳng tuân thủ quy củ sẽ loạn. Giới luật
là quy củ. Sau đấy là “thân
đồng trụ, khẩu vô tránh, ư đồng duyệt” (thân
cùng ở, miệng chẳng tranh căi, cùng vui vẻ chia sẻ
ư kiến), đó là vui vẻ ở cùng một chỗ. “Lợi đồng quân”: Đây
là nói b́nh đẳng hưởng thụ hết thảy các
thứ cúng dường, không có đặc quyền. Đấy
là Lục Ḥa Kính. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
mọi người khất thực, tôi đi khất thực,
khất thực được cúng dường kha khá, cơm
và thức ăn ngon lành, người kia khất thực, nhà
người ta nghèo khổ, cúng thí khác hẳn. Ngày hôm nay chúng
ta được món lợi này th́ làm sao? Chẳng phải là
xin xong bèn ăn ngay, không thể! Khất thực xong, quay về,
trở về Tăng đoàn, đem cơm xin được
trộn lẫn với nhau, rồi lại phân chia, ăn
theo cách như vậy, cho nên nói “nhất
bát thiên gia phạn” (một bát, cơm ngàn nhà). Đúng vậy,
chẳng giả! Tăng đoàn một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, ra bên ngoài khất thực, chẳng
phải là cơm ngàn nhà hay sao? Trộn lẫn lại để
ăn, quư vị thấy đó: Lợi ḥa đồng quân
(chia sẻ lợi lạc b́nh đẳng). Quư vị ra ngoài
khất thực, khất thực chẳng được,
không sao cả! Biết về nhà sẽ được ăn,
được mọi người chia phần, lợi ḥa
đồng quân.
Trong đây,
quan trọng nhất là kiến ḥa đồng giải, chúng
ta làm sao để có thể có cách nghĩ và cách nh́n chung? Khi
chúng ta mê, bất giác, chưa đại triệt đại
ngộ, chúng ta phải nương theo Phật, nương
tựa thầy, nương theo kinh giáo của thầy. Lấy
những thứ ấy làm căn cứ cho tư tưởng,
kiến giải, tương ứng với kinh giáo là chánh
tri chánh kiến. Trái phạm kinh giáo là tà tri tà kiến. Chúng
ta phải chuyển tà thành chánh. Chánh - tà có rất nhiều
tiêu chuẩn, mỗi kinh điển khác nhau; v́ vậy, các
tông, các phái đều khác nhau, nhưng là đại đồng
tiểu dị, đều là chánh tri chánh kiến. Thậm
chí nay chúng ta mở rộng tầm mắt, thấy trên thế
giới này có nhiều tôn giáo khác nhau, chỉ cần chính phủ
công nhận tôn giáo ấy là tôn giáo chính đáng, chúng ta cũng
tôn trọng và thừa nhận kiến giải của họ
cũng là chánh tri chánh kiến. Như vậy th́ chúng ta mới
có thể chung sống ḥa thuận, mới có thể đối
đăi b́nh đẳng, mới mang lại ḥa b́nh, yên ổn cho
thế giới. Đó là trong nhân gian và trong lục đạo.
Nếu là trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, cảnh
giới ấy được nâng cao hơn, tiêu chuẩn khác
hẳn. Đến địa vị Bồ Tát, tiêu chuẩn
là tự tánh: Tương ứng với Tánh Đức th́ là
chánh tri chánh kiến; trái nghịch Tánh Đức của tự
tánh sẽ là tà tri tà kiến, khác hẳn [nhân gian và lục
đạo]. Do vậy, tiêu chuẩn rốt ráo, tiêu chuẩn
tuyệt đối là tự tánh; khi quư vị minh tâm kiến
tánh, quư vị sẽ chứng đắc.
Khi chưa
chứng đắc, quư vị học tập những người
đă chứng đắc, người chứng đắc
cho chúng ta biết: Đó là Tánh Đức. Đó là ǵ? Thưa
quư vị, Thập Thiện Nghiệp Đạo là Tánh Đức,
Tam Quy Ngũ Giới là Tánh Đức, Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên của Đạo gia là Tánh Đức, Âm Chất
Văn của Văn Xương Đế Quân cũng là Tánh
Đức, Đệ Tử Quy của Nho gia cũng là Tánh Đức,
giảng ngũ luân, ngũ thường, tứ duy bát đức[11] là Tánh Đức, là chứng đắc
của chư Phật, Bồ Tát. Chúng ta chưa chứng
đắc, phải nương theo giáo huấn của các
Ngài để hành, tùy thuận Tánh Đức, kiến lập
chánh tri chánh kiến và kiến ḥa đồng giải. Tu Lục
Ḥa Kính như thế nào? Thực hiện ba thứ căn bản
của Nho, Thích, Đạo là thật sự tu Lục Ḥa
Kính, Lục Ḥa Kính sẽ được thực hiện! Thật
sự làm! Bắt đầu làm từ đâu? Làm từ chính
ḿnh, đừng đ̣i hỏi người khác, quư vị sẽ
là đệ tử thật sự của đức Phật.
Chỉ đ̣i hỏi chính ḿnh, đừng đ̣i hỏi ai khác,
kiến lập ḥa hợp tăng đoàn như thế đó!
Tuyệt đối chớ nên đem ni tấc của chính
ḿnh xét đoán người khác, đến mọi nơi phê
b́nh người ta. [Làm như vậy] quư vị sẽ phạm
lỗi to lớn quá đỗi! Phải hiểu đạo
lư này! Chính quư vị làm được th́ sẽ thành tựu.
Quư vị thành tựu, chắc chắn sẽ cảm hóa
người khác. Một người chịu làm, có thể
cảm hóa cả nhà; một nhà đều làm, chắc chắn
cảm hóa xóm giềng, cảm hóa thân thích, bằng hữu. V́
thế, sách Đệ Tử Quy có nói: “Thế phục nhân” (dùng uy thế khuất phục
người khác), chưa chắc người ta đă tiếp
nhận, “Lư phục nhân” (dùng
lư khuất phục người khác), người ta tự
nhiên bị cảm hóa. Phải làm từ chính bản thân ḿnh
mới là đúng.
Đă là Lư
tánh trong Bổn Giác của chúng sanh th́ là chính ḿnh, chính ḿnh là
chúng sanh. Hai chữ “chúng sanh”
có nghĩa là các duyên ḥa hợp sanh ra hiện tượng th́
gọi là chúng sanh. Con người chúng ta, thân thể này do các
duyên ḥa hợp; cái thân vật chất là Tứ Đại, đất,
nước, lửa, gió, Tứ Đại, Tứ Đại
là ǵ? Nói theo danh từ khoa học hiện thời, Tứ Đại
là nguyên tử hay điện tử. Các nhà khoa học cho biết:
Một nguyên tử, một điện tử, hoặc một
hạt cơ bản đều có bốn đặc tánh. Thứ
nhất là vật chất, nh́n bằng kính hiển vi cao cấp,
quư vị có thể thấy được, nó là vật thể
quá nhỏ, quư vị chẳng thể đụng tới, nhưng
có thể thấy nó. Nhà Phật gọi tánh chất này là Địa
Đại, Địa tượng trưng cho vật chất.
Một vật thể bé như thế có mang điện tích,
chứa âm điện hay dương điện.
Dương điện được gọi là Hỏa Đại,
âm điện là Thủy Đại. Nó có độ ẩm và
nhiệt độ, độ ẩm là Thủy Đại,
nhiệt độ là Hỏa Đại. Nó chuyển động,
chứ không tĩnh lặng, [chuyển động với] tốc
độ rất nhanh, sự chuyển động ấy gọi
là Phong, dùng Phong để tượng trưng, nên gọi
là Phong Đại. “Địa, thủy, hỏa, phong” là nói
về vật chất cơ bản hay hạt căn bản.
Di Lặc Bồ Tát dạy chúng ta: “Niệm niệm thành h́nh”, th́ “h́nh” là Tứ Đại, chúng có bốn hiện
tượng này. “H́nh giai hữu
thức” (h́nh đều có thức), câu này quan trọng.
Thức là ǵ? Thức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Chỉ cần là vật chất, chắc chắn có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Nước là vật chất, tiến
sĩ Giang Bổn Thắng đă làm thí nghiệm với nước,
chứng minh vật chất có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Tôi bốn
lần sang Nhật Bản tham dự hội nghị quốc
tế, có hai lần đi phỏng vấn, tôi sang Nhật Bản
sáu lần. Trong sáu lần này, tôi đă hai lần tới thăm
pḥng thí nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng,
tôi tới thăm, ông ta đă giảng giải cặn kẽ.
Ông ta làm thí nghiệm mấy chục vạn lần, chứng
minh nước thật sự có kiến văn giác tri. Tôi bảo
ông ta: “Vẫn chẳng phải chỉ có hiện tượng
này, nay quư vị đă thấy nó có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Đối với những thí nghiệm này, nước
bộc lộ sắc tướng cho quư vị thấy, nhưng
trong kinh Phật nói Sắc, Thanh, Hương, Vị, có bốn
loại hiện tượng, quư vị chỉ mới thấy
Sắc, vẫn chưa phát hiện Thanh, Hương, Vị”.
Tôi nói: “Quư vị phải tiếp tục nỗ lực, tôi mong
quư vị dùng phương pháp khoa học, nước có âm
thanh, có hương, vị, quư vị có thể làm thí nghiệm
để xem xét, công đức vô lượng. Đấy
là như kinh Phật đă nói: Bất luận vật chất
ǵ cũng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
đều có Sắc, Thanh, Hương, Vị. Hăy dùng một
phương pháp trắc nghiệm khác, chẳng dùng nước
nữa”. Quư vị thấy hôm qua, mấy người bọn
họ báo cáo ở nơi đây: Họ dùng cơm, lấy
ba chén cơm. Một nồi cơm nấu xong, xới ra ba
chén, để hai mươi ngày. Một chén th́ mỗi ngày
tán thán, ca ngợi nó. Chén khác, chán ghét, oán hận nó. C̣n một
chén nữa, về căn bản là mặc kệ, không màng tới.
Hai mươi ngày sau, chén được tán thán mỗi ngày,
cơm biến thành màu vàng, có mùi thơm, chén bị oán hận
trở nên hết sức khó ngửi, biến thành đen
thui; chén không được để ư cũng bị hư,
nó thật sự hiểu được ư nghĩ của
con người. Đó là ǵ? Đó là thị hiện có Sắc,
Hương, Vị, c̣n âm thanh chưa có cách để làm thí
nghiệm. Đối với lời đức Phật dạy,
hoàn toàn làm thí nghiệm [sẽ thấy] hết thảy vật
chất đều có Sắc, Thanh, Hương, Vị,
đều có bốn hiện tượng này xuất hiện.
Phật pháp kỳ diệu khiến cho các nhà khoa học phải
gắng công chứng thực.
V́ thế,
ư niệm của chúng ta có mối quan hệ với tướng
mạo. Muốn đẹp đẽ, ngàn muôn phần đừng
tới thẩm mỹ viện. Theo như họ đă tường
tŕnh trong ngày hôm qua, thẩm mỹ viện khổ lắm! Tốn
cả đống tiền để đày đọa bản
thân, chịu bao nhiêu đày đọa, gần như mất
mạng, lầm lạc quá! Chỉ cần quư vị có tâm tốt,
tướng mạo sẽ đẹp đẽ, tướng
chuyển theo tâm. V́ sao quư vị không tin chuyện này? Tâm tốt,
tướng sẽ tốt đẹp; tâm tánh tốt, thân sẽ
khỏe khoắn, thân lẫn tâm khỏe mạnh. Đừng
bị kẻ khác lừa gạt! Phật, Bồ Tát chẳng
lừa ai, luôn nói lời chân thật, mà quư vị chẳng
nghe! Quư vị nghe lời chuyên viên thẩm mỹ, chẳng
phải là tự chuốc khổ đó sao? Chúng ta muốn
thân lẫn tâm khỏe mạnh, phải tin vào chính ḿnh, tâm niệm
phải lành, tư tưởng phải lành. Trong kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật bảo long
vương: “Bồ Tát hữu
nhất pháp, năng ly nhất thiết thế gian khổ”
(Bồ Tát có một pháp có thể ĺa hết thảy nỗi
khổ trong thế gian), pháp ǵ vậy? Là thiện pháp, tức
là Thập Thiện nghiệp đạo. Tư tưởng
của quư vị tương ứng với Thập Thiện
nghiệp, kiến giải của quư vị tương ứng
với Thập Thiện nghiệp, ngôn ngữ, hành vi của
quư vị tương ứng với Thập Thiện nghiệp,
chẳng có điều ǵ bất thiện, thân và tâm khỏe
mạnh, hạnh phúc mỹ măn sẽ thật sự đạt
được! Do vậy, đừng nên cầu bên ngoài.
Tiếp
theo đó, sách viết: “Cố
tri thử giới nhĩ năng niệm chi tâm tức thị
Như Lai quả giác” (cho nên biết cái tâm năng niệm
nhỏ nhoi chính là quả giác của Như Lai). Như Lai quả
giác là tự tánh, quả giác nơi tự tánh. Chữ “giới nhĩ” thường
thấy trong kinh Phật, nhằm h́nh dung một niệm vô
cùng vi tế. Nói thật ra, vi tế đến cùng cực
là như Di Lặc Bồ Tát đă nói: “Trong một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm”, đó là “giới
nhĩ”, tức một niệm tâm, chúng ta không có cách nào phát
hiện điều này. Nay chúng ta chỉ nhận biết một
cái khảy ngón tay là một phần tư giây. Chúng ta có thể
cảm nhận được, đó là nhất niệm của
bọn phàm phu chúng ta; c̣n một niệm tâm ở đây thuộc
về quả giác của Như Lai, là Tánh Đức, là tự
tánh giác. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tới chỗ này. Cảm ơn mọi người!
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 2
hết
[1] Đây là cách phân chia các kinh trong Đại
Tạng theo hệ thống tư tưởng, chẳng hạn
như Niết Bàn bộ, Hoa Nghiêm bộ, Phương Đẳng
bộ v.v... Bát Nhă bộ bao gồm toàn bộ các kinh đặc
biệt giảng giải giáo nghĩa Bát Nhă như kinh Đại
Bát Nhă Ba La Mật, Kim Cang, Nhân Vương Hộ Quốc,
Phóng Quang Bát Nhă, Lư Thú Bát Nhă, Đạo Hành Bát Nhă, Đại
Minh Độ, Thắng Thiên Vương Bát Nhă v.v... Bộ
Đại Bát Nhă Kinh sáu trăm quyển do ngài Huyền Trang
dịch bao gồm toàn bộ các bản kinh Bát Nhă đă
được dịch trước đó.
[2] Nhà Tào Ngụy (220-266) do Tào Phi (con trai Tào
Tháo) sáng lập. Năm 220, Tào Phi bắt Hán Hiến Đế
(Lưu Hiệp) nhường ngôi, xưng đế, lập
ra nhà Ngụy. Lănh thổ nước Ngụy bao gồm phần
lớn phía Bắc sông Trường Giang, kinh đô là Lạc
Dương. Do Tào Tháo được nhà Hán phong thái ấp
thuộc vùng lănh thổ nước Ngụy thời Chiến
Quốc, nên có hiệu là Ngụy Công; v́ thế, Tào Phi mới
xưng quốc hiệu là Ngụy. Tuy Tào Tháo chưa bao giờ
xưng đế, Tào Phi đă truy tặng cha ḿnh là Ngụy
Thái Tổ Vũ Đế, cũng như tôn xưng ông cố
và ông nội là Cao Hoàng Đế và Thái Hoàng Đế, c̣n tự
ḿnh xưng là Văn Hoàng Đế, truyền được
năm đời. Về sau, Tư Mă Viêm soán ngôi của Ngụy
Nguyên Hoàng Đế (Tào Hoán), lập ra nhà Tấn.
Nhà Ngô (222-280) c̣n gọi là Đông Ngô hoặc
Tôn Ngô, do Tôn Quyền (Ngô Thái Tổ) sáng lập, truyền
được bốn đời, đóng đô tại Kiến
Nghiệp (Nam Kinh). Đến đời Tôn Hạo, Tấn
Vũ Đế (Tư Mă Viêm) diệt Đông Ngô, Tôn Hạo
bị giải về Lạc Dương. Do Tôn Hạo quá
nhu nhược, hèn nhát, ngây ngô, nên Tấn Vũ Đế
tha không giết, phong cho một tước hữu danh vô thực
là Quy Mạng Hầu.
[3] Do Đông Ngô và Tào Ngụy tồn tại
song hành, nên nói là ngài Khang Tăng Khải sống vào đời
Ngô cũng được.
[4] Đây là một vinh dự. Người
Hoa in sách thường nhờ một người viết
chữ đẹp mà ḿnh tôn trọng, quư mến nhất,
dùng bút lông viết tên sách, chụp lại, in làm b́a. Cụ
Hoàng Niệm Tổ cũng là một tay thư pháp lỗi lạc
vùng Hoa Bắc, nhưng không tự đề tên sách, mà nhờ
ḥa thượng Tịnh Không viết tựa sách nhằm tỏ
ḷng kính mến sâu đậm.
[5] Chữ “gia giáo” ở đây bao gồm
giáo dục trong gia đ́nh lẫn sự giáo dục truyền
thống do cộng đồng, địa phương duy
tŕ. Có thể hiểu “gia giáo” là lối giáo dục theo truyền
thống cổ, chưa học theo phương Tây.
[6] Đồng Thành phái
là một trường phái chuyên viết văn xuôi đời
Thanh do Phương Bao khởi xướng; cùng với
Phương Bao, Lưu Đại Khôi và Diêu Năi được
gọi là Đồng Thành Tam Tổ, tức ba người
hoàn thành lư luận và tông chỉ của học phái này. Do cả
ba người này đều quê ở huyện Đồng
Thành, tỉnh An Huy, nên trường phái này được gọi
là Đồng Thành Phái. Họ chủ trương nghiên cứu
những tác phẩm như Tả Truyện, Sử Kư để
t́m ra ư nghĩa chân chính ḥng tu thân lập đức. Năm
Khang Hy 50, v́ đă viết lời tựa cho bộ Nam
Sơn Tập của Đới Danh Thế, Phương
Bao bị liên lụy, phải hạ ngục. Về sau,
được Lư Quang Địa phát hiện, tiến cử
lên Khang Hy. Vua Khang Hy hết sức ngưỡng mộ, biết
ông Phương không thích làm quan, bèn mời Phương Bao
dùng thân phận áo vải để làm bạn văn
chương của hoàng đế, thật ra là cố vấn
riêng cho nhà vua tại Nam Thư Pḥng. Ông trở thành “trí nang”
(cái túi kiến thức) của ba đời vua Khang Hy, Ung
Chánh và Càn Long. Dưới thời Ung Chánh, nghe theo lời
nhà vua thuyết phục, ông đă chấp nhận giữ chức
Tả Trung Doăn của Tả Xuân Phường Chiêm Sự Phủ,
thăng Nội Các Học Sĩ, rồi Lễ Bộ Thị
Lang, làm tổng biên tập bộ Đại Thanh Nhất Thống
Chí cũng như làm phó tổng biên tập bộ Tam Lễ
Thư thời Càn Long.
[7] Ấn Quang đại sư viên tịch
năm Dân Quốc 29 (1940).
[8] Theo quy chế tùng lâm, tăng chúng phải
tham dự năm thời khóa tụng niệm, ba thời
khóa trên Phật đường, hai thời khóa trong trai
đường, nên gọi là “ngũ
đường công khóa”, tức tảo khóa (khóa tụng
kinh sáng), tảo xan quá đường (tụng niệm khi
ăn cơm sáng), cúng Ngọ, ngọ xan quá đường
(tụng niệm khi ăn cơm trưa), và văn khóa (khóa tụng
kinh tối). Trừ các pháp sư chuyên giảng kinh pháp, các
pháp sư khác phải thuộc nghi thức và biết sử
dụng pháp khí để thay phiên nhau dẫn chúng trong các
khóa tụng niệm này.
[9] Bành Hâm là Trung y sĩ (thầy thuốc Bắc)
là chuyên viên nghiên cứu tại Sở
Nghiên Cứu Lư luận trực thuộc Trung Quốc Trung Y
Đại Học Viện, tốt nghiệp từ Bắc
Kinh Trung Y Dược Đại Học, chuyên nghiên cứu
châm cứu, và các lư luận ứng dụng chữa trị,
chẩn đoán và pḥng bệnh trong Đông Y, chủ
trương đường lối dưỡng sinh bằng
tu đức.
[10] Ngũ tạng lục phủ là danh từ
phiếm chỉ tất cả cơ quan nội tạng
trong thân thể con người. Tâm, can, tỳ, phế, thận
(tim, gan, lá lách, phổi, thận) là Ngũ Tạng. Tiểu
Trường, Đảm, Vị, Đại Trường,
Bàng Quang (ruột non, mật, bao tử, ruột già, bàng
quang) kèm thêm Tam Tiêu thành Lục Phủ. Tam Tiêu là khoảng trống
giữa ngực và bụng được chia thành ba phần
gọi là Thượng Tiêu, Trung Tiêu và Hạ Tiêu.
[11] Ngũ luân là năm mối quan hệ chính
yếu: Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn. Ngũ
thường là nhân, lễ, nghĩa, trí tín. Tứ duy là lễ,
nghĩa, liêm, sỉ. Bát đức là trung, hiếu, nhân, ái,
tín, nghĩa, ḥa, b́nh.